Những Bất Cập Và Một Số Kiến Nghị Để Hoàn Thiện Pháp Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Về Bảo Vệ Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Con Khi Cha Mẹ Ly Hôn

chăm sóc con mình một cách tốt nhất. Tòa chỉ giao con dưới ba tuổi cho người cha nếu người mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con hoặc từ chối nuôi dưỡng trong khi ở đây chị M. có việc làm, có thu nhập, có chỗ ở ổn định, lại tha thiết muốn nuôi con. Lẽ ra tòa phải giao con cho chị M., nếu sau này chị nuôi con không tốt thì anh H. có thể khởi kiện để yêu cầu thay đổi quyền nuôi con.

Hay vụ án giữa anh T và chị L tại Tòa án nhân dân huyện T (tỉnh Quảng Bình). Anh T. kết hôn với chị L. rồi sinh được một bé trai. Do chị L. làm hướng dẫn viên du lịch nên nay đây mai đó khiến anh T. thường nghi vợ không chung thủy. Sự nghi ngờ này khiến cho hai vợ chồng luôn xung đột. Đến đầu năm 2006, anh T. gửi đơn ra tòa đòi ly hôn. Do chị L. cũng đồng ý nên ngày 10-5-2006, tòa ra quyết định công nhận việc thuận tình này… Sáu tháng sau, chị L. sinh thêm một bé gái. Làm giấy khai sinh cho con chị vẫn khai tên cha là anh T. Được một thời gian, do hoàn cảnh khó khăn, chị L. yêu cầu anh T. góp thêm tiền để nuôi bé thứ hai. Anh T. không đồng ý vì cho rằng bé không phải con mình. Thấy anh T. dây dưa từ chối trách nhiệm của người cha, chị L. làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện T. (tỉnh Quảng Bình) giải quyết buộc anh T. phải cấp dưỡng nuôi bé. Sau khi xem xét đơn khởi kiện, tòa cho rằng chị L. sinh cháu bé sau khi đã ly hôn nên để có cơ sở buộc anh T. cấp dưỡng nuôi con, chị phải làm đơn yêu cầu tòa án xác định cháu bé này là con anh T. Sau khi có kết quả, tòa mới xem xét giải quyết vụ kiện đòi cha cấp dưỡng…

Thực tế, yêu cầu trên của tòa là không cần thiết vì vấn đề này đã được pháp luật quy định. Theo Điều 63 Luật Hôn nhângia đình, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng… Trường hợp nào được coi là người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân thì Điều 21 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP cũng quy định cụ thể: "Con sinh ra trong vòng 300 ngày kể từ ngày người chồng chết hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của tòa án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực

pháp luật thì được xác định là con chung của hai người" [4]. Như vậy, trường hợp này tòa án phải thụ lý giải quyết đơn kiện của chị L. vì cháu bé sinh ra trong vòng 300 ngày sau khi vợ chồng chị L. có quyết định ly hôn.Tòa án chỉ phải xác định cháu bé là con của ai trong trường hợp anh T. không thừa nhận cháu là con. Tuy nhiên, lúc này anh T. phải có yêu cầu nhờ tòa giải quyết. Tòa buộc chị L. phải yêu cầu tòa án xác định đó là con chung của hai người là không phù hợp.

Vụ án "xin thay đổi người trực tiếp nuôi con" giữa chị Khổng Thị Hà với ông Khánh, bà Định do Tòa án nhân dân huyện PN xét xử sơ thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh PT xét xử phúc thẩm (Bản án phúc thẩm số 35/2009/HNGĐ- PT ngày 10/8/2009). Năm 2008, anh Nguyễn Đức Trung và chị Khổng Thị Hà thuận tình ly hôn và thỏa thuận việc nuôi con chung, anh Trung nuôi cháu Nguyễn Đức Thành sinh ngày 18/10/2006, chị Hà nuôi cháu Nguyễn Thị Như Phương sinh ngày 21/9/2000; những thỏa thuận này đã được Tòa án công nhận tại Quyết định sơ thẩm số 50/2008/QĐ-ST-HNGĐ ngày 01/7/2008. Sau đó, anh Trung và cháu Thành ở cùng ông Khánh, bà Định (ông bà nội của cháu Thành). Tuy nhiên, ngày 09/7/2008, anh Trung chết, chị Hà có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Thành. Tại bản án phúc thẩm số 35/2009/HNGĐ-PT ngày 10/8/2009, Tòa án nhân dân tỉnh quyết định "công nhận" cho ông Khánh và bà Định được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Thành.

Theo quy định tại Điều 93 Luật Hôn nhân và gia đình thì: "Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con và phải tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên" [28]. Như vậy, về mặt pháp lý, sau khi anh Trung chết thì chị Hà có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Thành. Theo quy định tại Điều 47, 48 Luật Hôn nhân và gia đình thì ông bà nội chỉ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Thành trong trường hợp cha mẹ hoặc anh, chị em của cháu không còn hoặc không có điều kiện để nuôi dưỡng. Thực tế, khi ly hôn chị Hà

được giao nuôi dưỡng cháu Phương (chị cháu Thành); hiện chưa có căn cứ khẳng định chị Hà nuôi cháu Phương là không đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt của cháu Phương. Mặt khác, cũng chưa đủ căn cứ để khẳng định chị Hà không có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con, hoặc có sự thỏa thuận tự nguyện của cả hai bên, đồng thời ông Khánh, bà Định có đủ điều kiện chăm sóc tốt cho cháu về tất cả các mặt. Thực tế, theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì cả ông Khánh và bà Định tuổi đã cao, theo ông Khánh thì bà Định lại bị bệnh tai biến mạch máu não. Vì vậy, việc Tòa án cấp phúc thẩm giao cháu Thành cho ông Khánh, bà Định nuôi dưỡng là không đúng pháp luật.‌

Mặc dù những tồn tại như trên chỉ chiếm một tỉ lệ ít nhưng để đảm bảo quyền lợi của mọi trẻ có cha mẹ ly hôn, các Tòa án cần áp dụng chính xác tinh thần của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về việc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn. Quyết định chính xác của Tòa án là căn cứ pháp lý quan trọng nhất để các quyền lợi chính đáng của các em được thực hiện trên thực tế.


3.2. NHỮNG BẤT CẬP VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CON KHI CHA MẸ LY HÔN

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

3.2.1. Về các quy định pháp luật

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được ban hành và thực thi hơn mười năm, đem lại những hiệu quả đáng kể đối với xã hội. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành nói chung và quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của con khi cha mẹ ly hôn vẫn còn nhiều bất cập cần sửa đổi cho phù hợp.

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 - 10

Thứ nhất, về đối tượng được bảo vệ khi cha mẹ ly hôn.


Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, đối tượng là các con được pháp luật bảo vệ khi cha mẹ ly hôn bao gồm "con chưa thành

niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình". Quy định này được hiểu là các con được bảo vệ khi cha mẹ ly hôn gồm con chưa thành niên, con đã thành niên bị khuyết tật, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Như vậy, đối tượng được bảo vệ khi cha mẹ ly hôn quá rộng một cách không cần thiết và có sự trùng lặp. Thực tế không phải người thành niên khuyết tật nào cũng phải sống dưới sự nuôi dưỡng, chăm sóc của cha mẹ, rất nhiều người khuyết tật vẫn có khả năng lao động, có công việc ổn định với thu nhập hoàn toàn có thể nuôi sống bản thân thậm chí cả gia đình. Ví dụ, một nhà văn bị tai nạn và mất hai chân, anh phải ngồi xe lăn nhưng việc bị khiếm khuyết đôi chân không làm ảnh hưởng đến khả năng sáng tác văn chương của anh, hàng ngày anh vẫn sáng tác và nhận tiền thù lao. Hoặc có những người bị khuyết tật không có khả năng lao động nhưng họ vẫn có tài sản để tự nuôi mình. Ví dụ, một người bị liệt nhưng được ông nội để lại thừa kế cho hai tỷ đồng. Anh nhờ người đem số tiền ấy gửi tiết kiệm và hàng tháng dùng số tiền lãi suất ngân hàng để chi tiêu và thuê người giúp việc phục vụ mình mà không cần phụ thuộc vào cha mẹ. Do đó vấn đề bảo vệ quyền của con chỉ cần thiết với con đã thành niên bị tàn tật, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà những người này đã nằm trong trong đối tượng con đã thành niên "không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình".

Với quy định như trên cũng có thể hiểu là đối tượng các con được bảo vệ khi cha mẹ ly hôn là con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật và không có tài sản để tự nuôi mình, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự và không có tài sản để tự nuôi mình, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Tuy nhiên, cách hiểu này chỉ đúng khi quy định về cấp dưỡng nuôi con trong khi bên cạnh nghĩa vụ cấp dưỡng, cha, mẹ còn có nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục… đối với con. Người mất

năng lực hành vi dân sự là người "bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và được Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự" [31, Điều 22]. Cũng theo quy định của Bộ luật Dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự luôn phải có người giám hộ và trong trường hợp người đó chưa có vợ, chồng hoặc con đã thành niên thì cha mẹ là giám hộ đương nhiên. Mặt khác, họ cũng cần được sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ dù họ có tài sản hay không có tài sản để nuôi mình. Nếu như người không có khả năng lao động nhưng có tài sản, họ có thể thuê người chăm sóc mình thì người mất năng lực hành vi dân sự, họ không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình nên không thể thực hiện giao dịch dân sự để có người chăm sóc mình. Do đó đây cần được coi là một đối tượng được pháp luật bảo vệ khi cha mẹ ly hôn dù họ có hay không có tài sản để tự nuôi mình.

Tóm lại, nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng con sau khi ly hôn được đặt ra với cả con chưa thành niên và con đã thành niên nhưng không phải tất cả các con đã thành niên đều được cha mẹ chăm sóc và nuôi dưỡng mà nghĩa vụ ấy chỉ đặt ra đối với con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình và con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự. Do đó, nên sửa Khoản 1 Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình như sau: "Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự". Đoạn 1 Điều 56 sửa thành: "Khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con". Đoạn 1 khoản 1 Điều 92 cần được sửa như sau: "Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự".

Thứ hai, về việc giao con cho ai nuôi.

Theo Khoản 2 Điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, khi Tòa án giao con cho ai nuôi, "nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con" [28]. Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn chi tiết "Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên, thì trước khi quyết định, Tòa án phải hỏi ý kiến của người đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai" [36].

Theo quy định này và thực tiễn áp dụng pháp luật, thủ tục lấy ý kiến của con trẻ là bắt buộc trong giải quyết án ly hôn. Nếu thiếu thủ tục này án sẽ bị tòa cấp trên tuyên hủy. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử của ngành tòa án việc lấy ý kiến trực tiếp của trẻ là bắt buộc nhưng cũng chỉ để tham khảo khi Tòa án quyết định. Trước khi ra quyết định về việc giao con cho ai nuôi, Tòa sẽ xem xét các điều kiện về việc chăm sóc, nuôi dưỡng cũng như tình cảm, đạo đức, phương pháp nuôi dạy… để lựa chọn người nuôi con, bảo đảm sự phát triển tốt nhất cho trẻ. Trên thực tế, việc hỏi ý kiến của trẻ nhiều trường hợp không hề đơn giản. Nhiều vụ do cho cha mẹ không chịu đưa trẻ đến tòa nên cán bộ tòa phải tìm đến trường học hay nơi sinh sống của trẻ lấy ý kiến. Không cán bộ tòa nào muốn làm việc này, bởi hầu hết các trẻ đều ngơ ngác, khóc lóc khi biết cha mẹ mình muốn ly hôn. Và trong tờ tường trình của trẻ đều thể hiện là muốn sống chung với cả cha lẫn mẹ. Đã có những trường hợp, một số em buồn bã, học hành sa sút, thậm chí bỏ nhà đi bụi. Có những vụ việc mà người mẹ chở con đến tòa sau giờ tan học để hoàn thành thủ tục lấy ý kiến nguyện vọng của con trong vụ ly hôn của bà với chồng. Tại tòa, thẩm phán khuyên trẻ nên thực lòng viết ra những gì mình mong muốn, còn người mẹ lại ra sức ngồi bắt con viết theo ý mình là chỉ muốn sống chung với mẹ. Một lúc sau, đứa trẻ hoảng loạn, không những không viết được mà còn bật khóc và bỏ chạy ra đường, suýt chút nữa thì bị xe đụng. Hay có trường hợp cha mẹ ly hôn, có tranh chấp nuôi con trên chín tuổi nhưng tại thời điểm tranh chấp, con lại đang đi học ở nước ngoài. Gặp tình huống này, tòa lúng túng, không biết có cần phải thực hiện ủy thác tư pháp để xem xét nguyện vọng của con hay

không vì luật không hướng dẫn…Ngoài ra, trong trường hợp con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự thuộc trường hợp được nuôi dưỡng khi cha mẹ ly hôn thì việc lấy ý kiến của người đó có ý nghĩa gì không.

Việc "xem xét nguyện vọng" của con cái theo quy định tại Điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình là cần thiết. Khi cha mẹ ly hôn, các em đã mất đi một điểm tựa quan trọng nhất là mái ấm gia đình nên rất cần hỏi ý kiến để các em nói lên tâm tư, nguyện vọng của mình. Điều này cũng phù hợp với tinh thần của Điều 12 Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em mà Việt Nam là quốc gia thành viên. Theo đó, các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về tất cả vấn đề có tác động đến trẻ em, những quan điểm của các em được coi trọng một cách thích ứng với tuổi và độ trưởng thành của các em. Nhưng thiết nghĩ, pháp luật hôn nhân và gia đình không nên áp đặt việc xem xét nguyện vọng của con từ đủ chín tuổi trở lên với việc hỏi ý kiến của con mà có thể lấy nguyện vọng của trẻ một cách nhẹ nhàng thông qua những người thân, thầy cô giáo hay những người hàng xóm, láng giềng. Như vậy vừa đảm bảo nguyện vọng của con từ đủ chín tuổi trở lên vẫn được xem xét khi Tòa án giải quyết lại không ảnh hưởng tiêu cực đến chúng.

Thứ ba, về quyền thăm nom con.

Về quyền thăm nom con được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 còn một số bất cập như sau:

Một là, Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành chỉ quy định thăm nom con là một quyền nên nhiều trường hợp người không trực tiếp nuôi con đã bỏ qua việc này, mặc dù họ vẫn ý thức được trách nhiệm của mình và có điều kiện thuận lợi để thực hiện nó hoặc người không trực tiếp nuôi con không quan tâm đến sự trưởng thành, những nhu cầu tình cảm của những đứa con mà chính mình đã đem đến sự thiệt thòi cho chúng. Bởi vậy, những đứa con vốn đã thiệt thòi vì chỉ được sự chăm sóc của một người nay lại phải mang

nặng tâm lý bị bỏ rơi của người kia. Do đó việc thăm nom con nên quy định không chỉ là quyền mà còn là trách nhiệm, nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con để quyền và lợi ích hợp pháp của con được đảm bảo một cách toàn diện hơn.

Hai là, pháp luật về hôn nhân và gia đình quy định về việc xử lý đối với những hành vi cản trở quyền thăm nom con hoặc lạm dụng quyền thăm nom con để gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm nom, chăm sóc nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con nhưng chưa có quy định nào hướng dẫn về những hành vi cản trở quyền thăm nom con hay như thế nào được coi là gây cản trở hoặc ảnh hưởng xấu đến việc chăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con. Điều này sẽ khiến cho việc áp dụng pháp luật của các Tòa án để giải quyết những vụ việc như trên là không thống nhất. Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao với chức năng, nhiệm vụ là hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật và tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án nên dựa trên kết quả tổng kết kinh nghiệm xét xử của các tòa để ban hành văn bản hướng dẫn về các vấn đề trên để việc giải quyết vụ việc của các Tòa án được nhanh chóng và thống nhất.

Ba là, mặc dù Nghị định 110/2009/NĐ-CP có quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con nhưng thiết nghĩ mức xử phạt đó chưa đủ sức răn đe. Pháp luật nên quy định, trong trường hợp người trực tiếp nuôi con đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cản trở quyền thăm nom con mà vẫn tái phạm thì Tòa án sẽ coi đây là một điều kiện để thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu các bên có yêu cầu. Ngoài ra nên thay từ "ngăn cản" ở Điều 13 Nghị định số 110/2009/NĐ-CP bằng từ "cản trở" để thống nhất giữa Luật Hôn nhân và gia đình và Nghị định.

Bốn là, việc hạn chế quyền thăm nom con được quy định tại Điều 94 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 trong đó chỉ rõ điều kiện hạn chế quyền

Xem tất cả 109 trang.

Ngày đăng: 29/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí