Công Tác Quản Lý, Lưu Trữ Hồ Sơ, Cải Cách Thủ Tục Hành Chính

tăng, góp phần vào tăng trưởng quỹ. Theo đánh giá chung, bên cạnh những điểm tích cực vẫn còn những hạn chế dẫn đến nợ đọng BHXH còn cao gây nguya cơ mất cân bằng quỹ trong dài hạn, hơn nữa chính sách về đầu tư quỹ BHXH theo quy định tuy chặt chẽ, an toàn nhưng hiệu quả đầu tư lại chưa cao.

2.2.4. Công tác quản lý, lưu trữ hồ sơ, cải cách thủ tục hành chính

gắn liền nghiệp vụ cán bộ quản lý thực hiện

Việc quản lý đối tượng hưởng chế độ được duy trì thường xuyên với sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan BHXH đã góp phần quản lý đối tượng hưởng chính xác. Các đối tượng được hưởng đều có đủ hồ sơ lưu trữ tại BHXH.

Trong những năm gần đây công tác quản lý - lưu trữ hồ sơ đã có nhiều chuyển biến tốt nhờ hệ thống mạng máy tính và phần mềm mới giúp việc luân chuyển lưu trữ được thực hiện liên tục đạt hiệu quả cao đặc biệt BHXH Việt Nam đã tổ chức thực hiện việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính theo ba hình thức: Giao dịch điện tử, sử dụng dịch vụ bưu chính công ích (doanh nghiệp không phải trả phí) và trực tiếp tại bộ phận một cửa giúp đảm bảo đúng thời hạn quy định, phối hợp với Bưu điện thực hiện tiếp nhận và trả kết quả trực tiếp tại các đơn vị.

Năm 2017 đã hoàn thành việc xây dựng Trung tâm dữ liệu ngành BHXH tại Hà Nội với nhiệm vụ hiện tại là cung cấp năng lực xử lý tập trung cho toàn bộ các ứng dụng nghiệp vụ cấp Trung ương, phục vụ triển khai phần mềm nghiệp vụ lõi trên phạm vi toàn quốc, cũng như nhằm thực hiện tập trung hóa xử lý các hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin khác phục vụ công tác quản lý của Ngành. Qua đó, đã kịp thời xử lý tình trạng giải quyết chậm, muộn hoặc để tồn đọng hồ sơ giao dịch của cá nhân, tổ chức. Ngoài ra, việc giải quyết chế độ được áp dụng cơ chế “một cửa” liên thông, tạo thuận lợi cho NSDLĐ và NLĐ khi nộp hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ. Tuy nhiên, do phần mềm quản lý mới được áp dụng, một số cán bộ sắp đến tuổi

nghỉ hưu chưa sử dụng được thành thạo dẫn tới việc chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương còn hạn chế làm cho công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý của ngành BHXH còn gặp nhiều khó khăn.

Bên cạnh đó, công tác cải cách thủ tục hành chính luôn được coi trọng và thực hiện thường xuyên, góp phần giảm thiểu thời gian và kinh phí thực hiện thủ tục cho doanh nghiệp và người dân. Mô hình cơ cấu tổ chức và chức năng của BHXH được kiện toàn phù hợp với cơ chế quản lý hoạt động BHXH giúp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao, tạo điều kiện cho việc cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm phát triển nhanh đối tượng và phục vụ tốt hơn đối tượng tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH bắt buộc trong đó có BHXHHT bắt buộc.

Hạ tầng công nghệ thông tin đã được tập trung đầu tư và cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý. Công tác cải cách hành chính toàn ngành BHXH đạt được nhiều kết quả đột phá, cung cấp được 14 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4. Cơ quan BHXH Việt Nam đã tăng 18 bậc so với năm 2016, vươn lên vị trí thứ 2 trong bảng xếp hạng chung của 25 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có dịch vụ công. Tuy nhiên, điều này cũng tạo lên áp lực rất lớn đối với đội ngũ công chức, viên chức và người lao động của ngành trong bối cảnh vừa phải thực hiện tinh giảm biên chế, vừa hoàn thiện hệ thống và đáp ứng nhu cầu phục vụ đối với người dân.

Do vậy, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như thái độ phục vụ của cán bộ BHXH thời gian qua đã được quan tâm và nâng cao đáng kể. Các cán bộ thường xuyên được học tập, nâng cao nghiệp vụ kỹ năng cũng như xử lý các tình huống thực tế thông qua các đợt tập huấn hay hội thi tại các cấp cơ sở. Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực trong công tác cán bộ ở đâu đó chúng ta vẫn còn bắt gặp trường hợp các đối tượng này gây khó khăn cho

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

người tham gia BHXH, thậm chí có thái độ hách dịch, quan liêu, lợi dụng vai trò nhiệm vụ của mình để nhũng nhiễu gây cản trở cho người dân đến làm thủ tục nhất là trong cơ chế một cửa và trong các hoạt động giám định y khoa còn nhiều khúc mắc.

2.2.5. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, thanh tra, kiểm tra,

Pháp luật về bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam - 10

giải quyết về tình trạng vi phạm pháp luật

Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, bên cạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành chức năng thì công tác truyền thông nói chung có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đưa chính sách BHHT bắt buộc đi vào cuộc sống. Đây là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài và xuyên suốt quá trình phát triển của ngành. Vì vậy, để đạt được mục tiêu hướng tới 50% lao động tham gia BHXH mỗi cán bộ làm công tác truyền thông tại các cơ quan đã không ngừng học tập, trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng truyền tải các thông điệp phù hợp đến từng đối tượng liên quan, tiếp tục đa dạng hóa các hình thức truyền thông, chú trọng tuyên truyền trực tiếp tại cơ sở, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về BHHT bước đầu mang lại hiệu quả tích cực như: truyền tải thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức phát hành miễn phí các loại ấn phẩm tuyên truyền, tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ doanh nghiệp làm BHXH, hoặc tổ chức các hội nghị đối thoại trực tiếp với NLĐ, cơ quan, tổ chức trên địa bàn, giúp cho NLĐ, cơ quan, doanh nghiệp được thuận tiện trong giao dịch, tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại.

Trong năm 2016, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHXH đã chuyển biến tích cực theo hướng gắn với phát triển đối tượng. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật đa dạng, thực chất và đi vào chiều sâu đã

nâng cao nhận thức của nhân dân và NLĐ, tạo điều kiện cho các bên tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách mới. Đặc biệt, năm 2016 với 2.950 các hội nghị đối thoại chính sách được các doanh nghiệp và NLĐ rất quan tâm và đánh giá cao.

Trang tin điện tử của BHXH Việt Nam đã đăng tải gần 3.000 tin, bài, văn bản tăng 50% so với năm 2015, thu hút 12 triệu lượt truy cập. Ngành BHXH đã phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí ở Trung ương và địa phương đăng tải trên 9.000 tin, bài, phóng sự, các cuộc phỏng vấn, các phim tài liệu, chuyên mục, chuyên đề, tọa đàm, giao lưu trực tuyến, đối thoại tư vấn trực tiếp, đặc biệt đã có 05 chuyên mục truyền hình phát sóng cố định hàng tuần [10]. Phối hợp tổ chức các lớp tập huấn trang bị kiến thức BHXH cho đối tượng là lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp xã, bưu điện, trưởng khu phố, trưởng ban nhân dân ấp, tổ trưởng tổ dân phố, tổ trưởng tổ nhân dân...

Nhìn chung công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về BHXH trong đó có BHHT được thực hiện với nhiều hình thức và sâu rộng nhưng lại mới chỉ tập trung hướng tới các đối tượng tiềm năng chưa hướng tới được những đối tượng tiềm năng khác nhưng chưa thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc hay các đối tượng thuộc khu vực dân trí chưa cao nhất là các bản xã nghèo thuộc vùng cận biên giới. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền cần phải có thời gian nên hiệu quả trực tiếp chưa cao trong khi đó đội tuyên truyền viên ở các cấp cơ sở còn mỏng và một số ít cán bộ đã chuẩn bị đến tuổi nghỉ hưu nên chưa thực sự nghiêm túc trong việc học hỏi, phát triển trau dồi cho bản thân.

Về công tác thanh tra, kiểm tra, hiện nay cơ quan BHXH đã và đang tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chi trả BHXHHT bắt buộc theo BHXH bắt buộc tại các điểm chi trả ở xã, phường do Bưu điện thực hiện, phối hợp cùng Bưu điện thực hiện quản lý đối tượng chặt chẽ, đảm bảo thực hiện chi đúng, chi đủ, chi đến tận tay đối tượng hưởng thụ theo quy định.

Bên cạnh đó, cơ quan BHXH đơn vị đã phối hợp với các cơ quan liên ngành xây dựng kế hoạch kiểm tra việc thực hiện pháp luật BHXH trong đó đôn đốc việc triển khai về việc thực hiện và xử phạt những vi phạm trong lĩnh vực này. Cụ thể:

Năm 2016 cơ quan BHXH các cấp đã thực hiện 7.578 cuộc thanh tra, kiểm tra tại 13.729 đơn vị sử dụng lao động, phối hợp thực hiện thanh tra, kiểm tra liên ngành 2.452 cuộc tại 4.896 đơn vị sử dụng lao động. Kết quả đã thu hồi về quỹ bảo hiểm xã hội số tiền trên 62 tỷ đồng bao gồm cả số thu hồi được trong năm do vi phạm từ năm 2015, xử phạt vi phạm hành chính 104 đơn vị sử dụng lao động với số tiền 2,1 tỷ đồng, trong đó đã thu được 1,5 tỷ đồng [10]. Năm 2017, toàn Ngành BHXH lập biên bản vi phạm hành chính đối với 505 đơn vị SDLĐ với tỷ lệ thu hồi nợ đóng sau kết luận thanh tra, kiểm tra đạt 52,7% [11].

Cùng với đó, nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng, trốn đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ, Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 đã bổ sung 4 điều luật quy định tội danh riêng đối với những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm bao gồm tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213), tội gian lận BHXH, Bảo hiểm thất nghiệp (Điều 214), tội gian lận BHYT (Điều 215) và tội trốn đóng BHXH, BHYT, Bảo hiểm thất nghiệp cho NLĐ (Điều 216).

Tuy nhiên sau hơn 1 năm thi hành, kể từ khi luật có hiệu lực, vẫn chưa khởi tố vụ án nào dù cơ quan BHXH đã gửi gần 40 hồ sơ sang cơ quan điều tra.

Cụ thể, theo thống kê của BHXH Việt Nam, đến nay đã có 15 BHXH tỉnh, thành phố chuyển sang cơ quan điều tra đề nghị xử lý hình sự các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN với tổng số 43 hồ sơ.

Trong đó: 15 hồ sơ đề nghị xử lý theo Điều 214, 1 hồ sơ đề nghị xử lý

theo Điều 215 và 27 hồ sơ đề nghị xử lý theo Điều 216. Kết quả 02 vụ việc đã bị khởi tố nhưng theo tội danh khác: “Giả mạo trong công tác” và “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” 01 vụ việc chuyển sang xử lý vi phạm hành chính do cơ quan điều tra xác định chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, 10 vụ việc cơ quan điều tra không thụ lý với lý do hành vi vi phạm xảy ra trước thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực, 01 trường hợp công ty đã tự nguyện trả hết nợ sau khi cơ quan BHXH chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra. Các trường hợp còn lại cơ quan điều tra đang xem xét, nghiên cứu hồ sơ [29].

Báo cáo của BHXH Việt Nam cho thấy, từ năm 2016 đến nay, các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH vẫn diễn biến phức tạp, các hình thức trục lợi quỹ BHXH của các cá nhân, đơn vị ngày càng tinh vi, khó phát hiện... Tình trạng chậm đóng, trốn đóng BHXH xảy ra ở hầu hết các địa phương, với mức độ ngày càng nhiều. Tính đến ngày 30/11/2018, tổng số tiền nợ BHXH phải tính lãi từ một tháng trở lên của BHXH các tỉnh, thành phố là

6.172 tỷ đồng, bằng 3,1% so với kế hoạch thu năm 2018 [28].

Thực tế áp dụng được bộ Luật hình sự vào khởi tố hình sự còn hạn chế bởi vì một mặt do những quy định của pháp luật vẫn chưa có văn bản hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cũng như chưa có văn bản hướng dẫn về hồ sơ, trình tự thực hiện chuyển hồ sơ vi phạm sang cơ quan điều tra để xử lý. Mặt khác, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến NLĐ khi doanh nghiệp ngừng sản xuất nên việc xử lý hình sự vẫn được xem xét một cách kỹ lưỡng.

2.3. Một số nhận xét về thực trạng pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam

2.3.1. Những kết quả đã đạt được

Thứ nhất, nhận thức chủ trương, quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước BHHT được từng bước đổi mới gắn kết hơn với hệ thống ASXH đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các

nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ. Chính sách BHHT hướng tới thực hiện công bằng xã hội, góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước.

Thứ hai, trách nhiệm của Nhà nước về tạo khung pháp lý bảo đảm vận hành hệ thống BHHT hiệu quả được thể hiện rõ. Nhà nước đã từng bước thể chế hóa hệ thống chính sách, pháp luật BHHT bắt buộc phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong từng giai đoạn. Các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật BHXH năm 2014, Luật An toàn, vệ sinh lao động tiếp tục được ban hành tương đối đầy đủ, kịp thời, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện chính sách BHXH. Đặc biệt, với Bộ luật Hình sự năm 2015, lần đầu tiên, pháp luật Việt Nam có quy định xử lý hình sự các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH tạo cơ sở pháp lý nghiêm khắc hơn đối với các hành vi đang gây bức xúc xã hội.

Thứ ba, chính sách BHHT trong quá trình hội nhập đã tiếp cận dần các chuẩn mực quốc tế, từng bước áp dụng các công ước quốc tế, đặc biệt là Công ước 102, 128 của ILO về quy phạm ASXH tối thiểu, theo hướng các quyền cơ bản của công dân, NLĐ được bảo đảm.

Thứ tư, chính sách BHXHHT bắt buộc đã và đang phát huy tác dụng tích cực trong đời sống xã hội. Đối tượng tham gia BHHT tăng qua các năm giai đoạn 2009-2017 đến năm 2018 con số tuy giảm nhẹ nhưng không đáng kể. Theo báo cáo, tính đến ngày 31/12/2017, giai đoạn 2009 - 2017 tổng kết dư quỹ hưu trí, tử tuất khoảng trên 400 nghìn tỷ đồng, tốc độ gia tăng kết dư quỹ này bình quân trên 20%/năm (năm 2017, số thu là 168.364 tỷ đồng, số chi là 110.583 tỷ đồng, chiếm 65,7%). Nguồn chi ngân sách nhà nước cho chế độ hưu trí, tử tuất trong tổng chi hưu trí, tử tuất giảm dần, nếu năm 2014 chi cho

808.197 người thì đến năm 2017 giảm chỉ còn 736.838 người.

Thứ năm, công tác tuyên truyền về BHXHHT bắt buộc cùng những cải cách trong thủ tục hành chính đã giúp việc quản lý được dễ dàng hơn, đem lại hiệu quả cao. Cùng với đó, BHXH Việt Nam đã và đang tích cực thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Qua thanh tra, cơ quan BHXH đã phát hiện nhiều vi phạm pháp luật về BHXH và thu hồi được nhiều khoản nợ đọng, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ. Đây là bước quan trọng để có thể tiến tới xử lý hình sự các đơn vị, cá nhân vi phạm Luật BHXH.

Sáu là, hoạt động đầu tư quỹ được thực hiện đảm bảo theo đúng phương án đầu tư được Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam thông qua, tăng tỷ trọng đầu tư trung và dài hạn, hoạt động đầu tư đảm bảo an toàn, chặt chẽ và theo đúng quy định của pháp luật.

Bảy là, nợ BHXH so với năm 2015 đã giảm cả về tỷ lệ nợ trên số phải thu và số tiền tuyệt đối do ngành BHXH đã tích cực thực hiện các giải pháp đồng bộ để thu hồi nợ.

2.3.2. Những hạn chế, tồn tại

Một là, điều kiện tuổi hưởng lương hưu đối với nam đủ 60 tuổi, đối với nữ đủ 55 tuổi được quy định từ năm 1960 đến nay vẫn chưa thay đổi, trong khi tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam tăng và xu hướng già hóa dân số nhanh. Tuổi nghỉ hưu của NLĐ Việt Nam hiện nay được quy định tại Luật BHXH năm 2014, ngoài ra, Chính phủ còn quy định tuổi nghỉ hưu cao hơn nhưng không quá 5 tuổi, tuổi nghỉ hưu thấp hơn từ 01 đến 05 tuổi đối với một số nhóm đối tượng. Trong điều kiện lao động bình thường, tuổi nghỉ hưu đối với nam là đủ 60 tuổi, nữ là đủ 55 tuổi, nhưng thực tế tuổi nghỉ hưu thấp hơn nhiều.

Hiện nay, số lượng người nghỉ hưu ở độ tuổi cao hơn thấp hơn nhiều so với số người nghỉ hưu trước độ tuổi do suy giảm KNLĐ, thể hiện ở tuổi trung bình hưởng lương hưu hiện nay tuổi nghỉ hưu của NLĐ Việt Nam trung bình

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/03/2024