ro HĐCTD của NHTM. Theo tiến sĩ Vũ Đình Ánh, để đối phó với sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức110, NH cần phải có càng nhiều thông tin về khách hàng càng tốt111. Thông tin tín dụng sẽ cho NH biết về uy tín, khả năng tài chính, chiến lược kinh doanh, khả năng trả nợ và nhiều nội dung quan trọng khác thiết yếu với NH, làm cơ sở cho NH cấp hoặc từ chối cấp tín dụng. Thông tin tín dụng có vai trò không chỉ đối với quá trình thẩm định và xét duyệt tín dụng, mà còn có vai trò trong khi giải ngân, sau khi giải ngân. Thông tin tín dụng còn có ý nghĩa đối với phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro.
e) Quy định về hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN
Bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM là trách nhiệm của chính NHTM đó. Tuy vậy, NHNN cũng có trách nhiệm bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM thông qua việc thực hiện các chức năng của mình. Uỷ ban Basel cũng có những quy định cho phép ngân hàng trung ương có thể cảnh báo, đưa ra những quy định về an toàn trong hoạt động của NHTM. Ở Việt Nam, NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, HĐNH và chức năng ngân hàng trung ương. Hai chức năng đó được biểu hiện thông qua hoạt động thanh tra giám sát an toàn HĐNH.
f) Quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro
Trước hết cần khẳng định, việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro nhằm bảo đảm an toàn trong HĐNH nói chung, trong đó có bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro được thực hiện sau khi đã giải ngân cho khách hàng. Căn cứ cho việc quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro ở chỗ: thời gian từ khi giải ngân đến khi thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi có thể rất dài. Trong thời gian đó, khách hàng có nhiều sự thay đổi có thể ảnh hưởng đến mức độ rủi ro mà trong khi thẩm định tín dụng không thể lường hết được. Chính vì vậy, phân loại nợ hướng đến mục tiêu nhìn nhận và đánh giá thực chất rủi ro của khách hàng, từ đó có biện pháp dự phòng tương xứng. Về nguyên tắc chung, phân loại nợ với rủi ro càng cao thì dự phòng rủi ro càng cao và ngược lại. Trong trường hợp xảy ra rủi ro và hậu quả, các NHTM dùng khoản dự phòng này để xử lý rủi ro.
g) Quy định về việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
Quy định về việc duy trì các tỷ lệ an toàn, trong đó có tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu nhằm bảo đảm an toàn trong HĐNH nói chung. Nhìn chung, ngân hàng với vốn chủ sở hữu thấp thường có rủi ro đạo đức, có thể cho vay các dự án có độ rủi ro tín dụng cao. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu có quan hệ ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu ngân hàng.112 Đối với
Có thể bạn quan tâm!
- Nguyên Nhân Của Rủi Ro Trong Hoạt Động Cấp Tín Dụng Của Nhtm
- Các Tiêu Chí Đánh Giá Sự An Toàn Trong Hoạt Động Cấp Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Vai Trò Của Pháp Luật Về Bảo Đảm An Toàn Trong Hoạt Động Cấp Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Phải Góp Phần Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh, Đảm Bảo Hoạt Động Ngân Hàng Phát Triển Hiệu Quả, Bền Vững
- Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 12
- Những Hạn Chế, Bất Cập Của Pháp Luật Và Thực Hiện Pháp Luật Về Phòng Ngừa Rủi Ro Trong Hoạt Động Cấp Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.
110 Trong hoạt động tín dụng thường nảy sinh hai vấn đề cơ bản là sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Biểu hiện của sự lựa chọn đối nghịch là người vay kém tín nhiệm nhất do rủi ro cao lại sẵn sàng trả giá cao nhất cho khoản vay. Rủi ro đạo đức liên quan tới người vay có thể sử dụng khoản vay vào những việc quá rủi ro mà người cho vay không biết.
111 Vũ Đình Ánh, tlđd (số 1), tr 37.
112 Lê Thị Thu Thủy (chủ biên, 2016), Tlđd (số 108), tr 33,34.
bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM, bên cạnh các biện pháp phòng ngừa rủi ro như đã nêu, NHTM cần phải có nghĩa vụ duy trì trạng thái an toàn thông qua các quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn. Theo thông lệ quốc tế, đặc biệt là quy định của Uỷ ban Basel về giám sát an toàn HĐNH, NHTM phải duy trì các tỷ lệ thanh khoản (khả năng chi trả); tỷ lệ an toàn vốn (tỷ lệ tối thiểu giữa vốn tự có và tổng tài sản có rủi ro); tỷ lệ vốn huy động so với vốn cấp tín dụng (tỷ lệ đòn bẩy tài chính); tỷ lệ vốn ngắn hạn sử dụng để cho vay trung và dài hạn...Thông qua việc quy định tỷ lệ này, NHTM sẽ phải duy trì tỷ lệ thích hợp, vừa đảm bảo an toàn, vừa đảm bảo phát huy khả năng cạnh tranh và quyền tự chủ kinh doanh của mình. Đối với nhà nước, quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn làm cơ sở cho việc thực hiện thanh tra, giám sát an toàn HĐNH nói chung và HĐCTD của các NHTM nói riêng.
h) Quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ
Quy định của pháp luật về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ là nhắm đến phòng ngừa rủi ro nói chung trong HĐNH, đặc biệt là phòng ngừa rủi ro vận hành của các NHTM. Quy định này yêu cầu các NHTM cần xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ thông qua việc quy định đầy đủ các quy trình, quy định nội bộ và cơ cấu tổ chức phù hợp nhằm bảo đảm an toàn hệ thống. Kiểm toán nội bộ là cơ quan độc lập trong việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm sửa đổi, bổ sung, duy trì và hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ.
Ngoài các quy định về phòng ngừa rủi ro trong HĐCTD của các NHTM như đã nêu ở trên, có quan điểm cho rằng bảo hiểm tiền gửi là một trong những biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro trong HĐCTD của các NHTM. Quan điểm của Haibo Yan và Ying Huang cho rằng bảo hiểm tiền gửi có chức năng giám sát, từ đó bảo đảm an toàn trong HĐNH.113 Tương tự như vậy, tác giả Đinh Dũng Sỹ đã phân tích mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo đảm an toàn tín dụng.114 Tác giả luận án cho rằng mục đích chính của bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền chứ không tham gia vào việc bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Điều đó có thể thấy rõ trong các quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012.
Tóm lại, có một số biện pháp cấu thành nên pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong HĐCTD của các NHTM. Mỗi biện pháp đều có bản chất và vai trò riêng, nhưng đều có chung mục tiêu là phòng ngừa rủi ro, bảo đảm an toàn trong HĐTCD của các NHTM.
113 Haibo Yan, Ying Huang, Deposit Insurance and banking supervision in China: The agenda ahead, The Geneva Paper, số 33, năm 2008 (547-565).
114 Đinh Dũng Sỹ, “Bảo hiểm tiền gửi và vấn đề an toàn tín dụng”, Tạp chí Luật học, số 6 năm 2002.
2.3.2. Pháp luật về xử lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại
Như phần trên tác giả đã phân tích, có hai nhóm biện pháp xử lý rủi ro trong HĐCTD của các NHTM gồm biện pháp xử lý khai thác và biện pháp xử lý thanh lý. Vì vậy, pháp luật về xử lý rủi ro trong HĐCTD của các NHTM có cấu trúc gồm những quy định của pháp luật về xử lý khai thác và những quy định của pháp luật về xử lý thanh lý. Cụ thể, pháp luật về xử lý khai thác gồm quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ; quy định về khoanh nợ, miễn giảm lãi suất, xoá nợ. Pháp luật về xử lý thanh lý gồm quy định về chấm dứt cấp tín dụng, xử lý nợ; quy định về mua bán nợ; quy định về sử dụng dự phòng rủi ro; quy định về các biện pháp xử lý khác.
a) Quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ
Cơ cấu lại thời hạn trả nợ là một trong những biện pháp xử lý rủi ro trong HĐCTD. Thật vậy, để giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới mức tiêu chuẩn, làm lành mạnh hóa tài chính của NH, cần thông qua cơ cấu lại nợ, xử lý tài sản bảo đảm, dùng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp...115. Cơ cấu lại thời hạn trả nợ bao gồm điều chỉnh lại kỳ hạn trả nợ và gia hạn nợ. Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ là việc TCTD chấp thuận thay đổi kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay trong phạm vi thời hạn cho vay đã thoả thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng, mà kỳ hạn trả nợ cuối cùng không thay đổi. Gia hạn nợ vay là việc TCTD chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay, vượt quá thời
hạn cho vay đã thoả thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng.
Biện pháp điều chỉnh kỳ hạn trả nợ được áp dụng đối với khách hàng không có khả năng trả nợ đúng kỳ hạn nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay trong phạm vi thời hạn cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và TCTD đánh giá là có khả năng trả nợ trong các kỳ hạn tiếp theo, thì TCTD xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay.
Biện pháp gia hạn nợ được áp dụng đối với khách hàng không có khả năng trả hết nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay đúng thời hạn cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và được TCTD đánh giá là có khả năng trả nợ trong một khoảng thời gian nhất định sau thời hạn cho vay, thì TCTD xem xét cho gia hạn nợ với thời hạn phù hợp với nguồn trả nợ của khách hàng.
Như vậy, cơ cấu lại thời hạn trả nợ được áp dụng đối với khách hàng có mức độ rủi ro thấp, có thể kéo dài thời gian trả nợ cho NHTM.
115 Vũ Đình Ánh, Tlđd (Số 1), tr 38.
b) Quy định về khoanh nợ, miễn giảm lãi suất, xoá nợ
Xét ở góc độ kinh tế, khoanh nợ là việc NHTM tạm thời chưa thu nợ của khách hàng và không tính lãi tiền vay phát sinh trong thời gian được khoanh nợ. Xoá nợ là việc NHTM không thu một phần hoặc toàn bộ nợ gốc, lãi của khách hàng đang còn dư nợ tại NHTM.
Xét về bản chất pháp lý, khoanh nợ là việc NHTM thoả thuận cho khách hàng hoãn thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 354 BLDS năm 2015). Xoá nợ là việc NHTM miễn thực hiện nghĩa vụ dân sự cho khách hàng (Điều 372 và Điều 376 BLDS năm 2015).
Chúng ta thấy rằng, miễn giảm lãi suất vừa thể hiện bản chất của khoanh nợ, vừa thể hiện bản chất của xoá nợ, bởi lẽ khoanh nợ chính là việc NH giảm lãi suất về mức 0% trong thời gian khoanh nợ; còn miễn lãi suất chính là việc NH xoá nợ lãi cho khách hàng.
Một vấn đề pháp lý đặt ra là liệu khoanh nợ, miễn giảm lãi suất và xoá nợ có phải là biện pháp xử lý rủi ro hay không, bởi lẽ khi NHTM khoanh nợ, miễn giảm lãi suất và xoá nợ cho khách hàng thì NH đó chưa thể (hoặc có khó khăn) thu hồi được số vốn gốc và lãi từ khách hàng. Như vậy người chịu thiệt hại trước hết ở đây là chính NH đó. Tác giả luận án cho rằng, khoanh nợ, miễn giảm lãi suất và xoá nợ là biện pháp xử lý rủi ro vì ba lý do sau đây: (i) quy định về khoanh nợ, miễn giảm lãi suất và xoá nợ sẽ tạo lập khung pháp lý cho việc thực hiện hoạt động này một cách an toàn; (ii) mục tiêu chính của xử lý rủi ro là nhằm bảo đảm an toàn, bảo toàn nguồn vốn trong HĐCTD của NHTM, không nhất thiết NHTM phải có lợi nhuận khi xử lý rủi ro; (iii) khoanh nợ, miễn giảm lãi suất và xoá nợ có thể áp dụng trong một số trường hợp nhất định.
Tuy vậy, khi khoanh nợ, miễn giảm lãi suất và xoá nợ, NHTM tạm thời chưa thu hồi hoặc không thu hồi được vốn gốc và lãi, nên khi áp dụng biện pháp này cần hết sức thận trọng, bỡi lẽ nếu lạm dụng hoặc áp dụng không khoa học biện pháp này thì nguy cơ thiệt hại cho NHTM là rất lớn. Đồng thời biện pháp này chỉ được áp dụng khi khách hàng có khó khăn, rủi ro khách quan và NHTM đã áp dụng mọi biện pháp mà vẫn không xử lý được.
c) Quy định về chấm dứt cấp tín dụng, xử lý nợ
HĐCTD của NHTM được thực hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng tín dụng. Về nguyên lý chung, rủi ro trong HĐCTD phần lớn là rủi ro phát sinh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng cấp tín dụng. Chính vì vậy, pháp luật về hợp đồng cần phải có những quy định nhằm xử lý những rủi ro này. Trên thực tế, rủi ro trong HĐCTD của NHTM xuất phát chủ yếu do khách hàng thực hiện không đúng nghĩa vụ (ví dụ: không thực hiện nghĩa vụ trả gốc và lãi vay...) hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ (chậm thanh toán tiền gốc và lãi vay) hay vi phạm các nội dung khác của hợp đồng tín dụng. Pháp luật cũng dự liệu hướng xử lý cho những vi phạm này như: buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng, yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại, yêu cầu trả lãi chậm
thanh toán, đơn phương chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng. Bên cạnh đó, các bên có thể thoả thuận các biện pháp xử lý như phạt vi phạm hợp đồng, lãi chậm trả theo thoả thuận...
Trong HĐCTD, NHTM có thể áp dụng những giải pháp xử lý khi khách hàng vi phạm hợp đồng như đã nêu ở trên. Bên cạnh đó, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 cũng đưa ra biện pháp xử lý là chấm dứt cấp tín dụng, xử lý nợ (Điều 95). Xét về bản chất, chấm dứt cấp tín dụng là việc NHTM đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo Điều 428 BLDS năm 2015. Trong trường hợp này, NHTM phải thông báo ngay cho khách hàng biết về việc chấm dứt hợp đồng. Hợp đồng chấm dứt kể từ khi khách hàng nhận được thông báo chấm dứt. NH có quyền yêu cầu khách hàng thanh toán tiền gốc và lãi theo thoả thuận. Nếu khách hàng thực hiện không đúng việc thanh toán thì NH có quyền xử lý nợ, trong đó phổ biến là xử lý tài sản bảo đảm.
Biện pháp xử lý rủi ro này được áp dụng đối với những trường hợp rủi ro cao, có thê gây ra những hậu quả nghiệm trọng đối với NHTM.
d) Quy định về mua bán nợ
Về bản chất, mua bán nợ là việc bên bán nợ chuyển quyền sở hữu đối với quyền đòi nợ cho bên mua nợ để nhận tiền, còn bên mua nợ thanh toán cho bên bán nợ để nhận quyền sở hữu đối với quyền đòi nợ theo thỏa thuận116. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, khi mua bán nợ, NHTM chuyển giao quyền yêu cầu trả nợ cho bên mua nợ (Điều 365 BLDS năm 2015). Như vậy, bên mua nợ gọi là người thế quyền theo thoả thuận với NHTM. NHTM phải báo cho khách hàng (bên nợ, bên có nghĩa vụ) biết việc chuyển giao
quyền yêu cầu. Việc chuyển giao quyền yêu cầu này không cần phải có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Kinh nghiệm của các quốc gia ở châu Âu, Hoa Kỳ và Trung Quốc coi việc mua bán nợ là hoạt động quan trọng trong xử lý rủi ro tại các ngân hàng117. Thực tế hiện nay ở Việt Nam, các NHTM thường bán nợ cho các công ty xử lý nợ thuộc các TCTD. Việc mua bán nợ này có ưu điểm là NHTM “làm sạch” được bảng cân đối kế toán của mình, không mất quá nhiều thời gian theo đuổi các khoản nợ của khách hàng. Mặt khác, các công ty xử lý tài sản có chuyên môn và nghiệp vụ về mua bán và xử lý nợ
nên việc chuyển giao này có khả năng tạo hiệu quả cao đối với hoạt động xử lý rủi ro của các NHTM, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nhìn chung, mua bán nợ được áp dụng đối với các khoản nợ khó thu hồi và khách hàng có rủi ro cao.
116 Lê Trọng Dũng, “Khoảng trống của pháp luật về mua bán nợ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8/2015, tr 64.
117 John P. Bonin, Yiping Huang, “Dealing with the bad loans of the Chinese banks”, Jounal of Asean Economics, 197-214, 2001.
e) Quy định về sử dụng dự phòng rủi ro
Khi cấp tín dụng cho khách hàng, NHTM phải phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Hiện nay, có 5 loại nợ với mức trích lập dự phòng rủi ro cụ thể là khác nhau. Nợ đủ tiêu chuẩn áp dụng mức trích lập dự phòng rủi ro 0%; nợ cần chú ý trích lập dự phòng 5%; nợ dưới tiêu chuẩn trích lập dự phòng 20%; nợ nghi ngờ trích lập dự phòng 50%; nợ có khả năng mất vốn trích lập dự phòng 100%. Ngoài ra, NHTM phải trích lập dự phòng rủi ro chung là 0,75% tổng nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
Xét ở góc độ kinh tế, trích lập dự phòng rủi ro là hoạt động của NHTM trong việc chuyển vốn hay khoản thu nhập có được nhằm dự phòng nguồn bù đắp cho những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của NH. Khoản dự phòng này được coi là một khoản chi phí của NH. Rủi ro càng cao thì dự phòng càng cao và ngược lại, đồng thời dự phòng càng cao thì thu nhập của NH càng giảm.
Xét ở góc độ pháp lý, dự phòng rủi ro là một quy định của pháp luật nhằm xác lập nghĩa vụ pháp lý của NHTM cho việc phòng ngừa rủi ro trong HĐCTD của NHTM. Trong trường hợp có rủi ro và hậu quả của nó thì NH cần xem xét sử dụng khoản dự phòng này để xử lý rủi ro. Quy định của pháp luật về sử dụng dự phòng rủi ro tác động đến thu nhập và phân phối thu nhập của các NHTM. Bởi lẽ nếu không dự phòng rủi ro thì thu nhập của NH sẽ được dùng để thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy định và phân phối thu nhập cho chính NH đó. Thực hiện quy định của pháp luật về sử dụng dự phòng rủi ro sẽ làm cho NH phải tính toán kỹ hơn về doanh thu và chi phí, từ đó tác động đến các hành vi kinh doanh của NHTM.
Xét ở góc độ vốn, khi NHTM gặp rủi ro trong HĐCTD, rủi ro đó ảnh hưởng trực tiếp (“ăn sâu”) vào vốn tự có của NH. Chính vì vậy, vốn tự có của NH được coi là một nguồn để tăng cường khả năng chịu đựng của NH trước những rủi ro có thể xảy ra. Vốn tự có càng cao thì khả năng chịu đựng những rủi ro càng lớn. Tuy nhiên, phần lớn các NHTM của Việt Nam có nguồn vốn tự có không nhiều, trong khi rủi ro trong HĐCTD của các NHTM là rất cao. Vì vậy dự phòng rủi ro được xem như một nguồn dự phòng có thể sử dụng, bên cạnh vốn tự có, để xử lý rủi ro.
f) Quy định về các biện pháp xử lý khác
Ngoài những biện pháp chính để xử lý rủi ro như đã nêu ở phần trên, còn có một số biện pháp khác nhằm xử lý rủi ro trong HĐCTD của NHTM.
Tiếp tục hỗ trợ vốn để khách hàng khắc phục khó khăn và phục hồi
NHTM có thể xem xét việc tiếp tục đầu tư, cho vay, bảo lãnh đối với khách hàng có rủi ro do khó khăn tạm thời nhưng có triển vọng phục hồi và phát triển tốt. Đối với những khách hàng vay có các dự án, công trình đầu tư dở dang hoặc sắp hoàn thành và có khả năng phát huy hiệu quả kinh tế, NHTM tiếp tục cho vay, đầu tư để hoàn thiện đưa vào
khai thác hoặc bán để thu hồi nợ. Tuy vậy, áp dụng cho vay trong trường hợp này cần cẩn trọng, vì nếu nới lỏng tín dụng trong khi chưa cải thiện các điều kiện bảo đảm an toàn cho vay thì NH sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn và tỷ lệ nợ quá hạn lại tiếp tục gia tăng118.
Yêu cầu giải quyết phá sản để thu hồi vốn
Theo Khoản 1, Điều 5 Luật Phá sản năm 2014, chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Như vậy, khi NHTM không thu hồi được gốc và lãi cấp tín dụng từ khách hàng là doanh nghiệp và hợp tác xã thì NH có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản. Việc toà án giải quyết phá sản sẽ tạo điều kiện cho NH thu hồi toàn bộ hoặc một phần vốn gốc và lãi cấp tín dụng. Chính vì vậy, đây được coi là một biện pháp xử lý rủi ro.
Tuy nhiên, biện pháp này chỉ được áp dụng bởi những căn cứ nhất định theo quy định của pháp luật; đồng thời biện pháp này cũng chỉ được áp dụng khi khách hàng được cấp tín dụng là doanh nghiệp và hợp tác xã.
Ngoài các quy định về xử lý rủi ro như đã phân tích ở trên, vấn đề pháp lý đặt ra là liệu hoán nợ thành vốn có phải là biện pháp xử lý rủi ro hay không?. Về vấn đề này có hai quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng hoán nợ thành vốn là một biện pháp xử lý rủi ro. Thật vậy, theo Theo Jun Ma, hoán nợ thành vốn là biện pháp xử lý rủi ro và có vai trò rất quan trọng, bởi lẽ khi áp dụng biện pháp này, nó làm gia tăng quyền của NH trong việc giám sát khách hàng vay, đảm bảo cho việc NH xử lý những vấn đề khó khăn của doanh nghiệp119. Quan điểm này cũng được khẳng định trong Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD Việt Nam ban hành theo Quyết định 254/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD Việt Nam ban hành theo
Quyết định 843/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Quan điểm thứ hai cho rằng hoán nợ thành vốn không phải là biện pháp xử lý rủi ro. Theo Trần Công Hoà và Đỗ Thị Trà Linh, hoán nợ thành vốn góp không phải là biện pháp xử lý rủi ro, mà là biện pháp tái cơ cấu nợ120.
Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai, theo đó hoán nợ thành vốn không phải là biện pháp xử lý rủi ro vì những lý do như sau:
Thứ nhất, xét về bản chất kinh tế, hoán nợ thành vốn là việc chuyển khoản thu từ gốc và lãi HĐCTD của NHTM trong hiện tại thành khoản thu vốn cổ phần (vốn góp) và lợi tức cổ phần trong tương lai. Điều này đồng nghĩa với việc điều chuyển mối quan hệ từ quan hệ cấp tín dụng sang quan hệ góp vốn trong công ty và chuyển tư cách chủ thể từ
118 Vũ Đình Ánh, Tlđd (số 1), tr 38.
119 Jun Ma (1996), “China’s banking sector: from administrative control to a regulatory framework”, Journal of Contemporary China, tr 13.
120 Trần Công Hoà, Đỗ Thị Trà Linh (2012), Tlđd (số 34), tr 31,32.
bên cấp tín dụng (NHTM) thành cổ đông hoặc thành viên góp vốn của công ty, tuỳ theo hình thức pháp lý của bên được cấp tín dụng là công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn. Như vậy việc hoán nợ thành vốn sẽ chuyển từ rủi ro trong quan hệ cấp tín dụng sang rủi ro trong hoạt động đầu tư tài chính, dễ dàng nhận thấy rủi ro này không thay đổi.
Thứ hai, khi thực hiện việc hoán nợ thành vốn, NH trở thành cổ đông hoặc thành viên góp vốn bằng con đường mua cổ phần hoặc phần vốn của doanh nghiệp. Về cơ bản, giá trị cổ phần hoặc phần vốn góp này tương đương với số nợ mà doanh nghiệp phải trả các NH. Từ đó, NH trở thành cổ đông hoặc thành viên góp vốn của doanh nghiệp và NH sẽ là chủ sở hữu của doanh nghiệp. Dễ dàng nhận thấy lúc này NH sẽ có khả năng chi phối, tái cấu trúc đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên khi áp dụng biện pháp này, NHTM có thể không có chuyên môn sâu vào lĩnh vực mà doanh nghiệp thực hiện kinh doanh. Vậy nên hoán nợ thành vốn có thể không có hiệu quả và khả năng NH “dấn sâu thêm vào sai lầm đang có” là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Thứ ba, NHTM có nhiều chức năng khác nhau, nhưng chức năng quan trọng nhất là trung gian về vốn trong nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện hoạt động của mình, NHTM có thể thực hiện việc góp vốn, mua cổ phần theo Điều 103 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010. Song việc đầu tư tài chính này chỉ được thực hiện bằng vốn điều lệ và các quỹ dự trữ, mà không được dùng vốn huy động để đầu tư. Nếu cho phép các NH thực hiện việc hoán nợ thành vốn thì đồng nghĩa với việc cho phép các NH dùng vốn huy động để góp vốn, mua cổ phần, như vậy sẽ rất nguy hiểm cho an ninh tài chính nói chung cũng như cho sự an toàn hoạt động của các NHTM.
Thứ tư, phạm vi áp dụng của biện pháp này khá hẹp, vì biện pháp này chỉ được áp dụng khi NHTM cấp tín dụng cho một số loại hình chủ thể kinh doanh nhất định như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và hợp tác xã, bởi lẽ với những chủ thể này, NHTM mới có thể hoán nợ thành vốn. Còn các chủ thể khác như cá nhân, hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân... thì NHTM không thể hoán nợ thành vốn vì bản chất của các chủ thể này cũng như theo các quy định của pháp luật hiện hành. Tóm lại, những biện pháp xử lý rủi ro như phần trên đã đề cập là khá đa dạng.
Chúng cấu thành nên pháp luật về xử lý rủi ro trong trong HĐCTD của các NHTM.
2.4. Yêu cầu đối với việc điều chỉnh bằng pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại
Để đảm bảo cho pháp luật điều chỉnh bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM phát huy hiệu lực, hiệu quả trên thực tế và phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay, nó cần đáp ứng một số yêu cầu nhất định, đó là những yêu cầu chung và yêu cầu cụ thể.