i) Luật Quản lý thuế mở rộng các hình thức giao dịch làm thủ tục về thuế như khai thuế điện tử, nộp tiền thuế theo hình thức chuyển khoản… tạo điều kiện cho người nộp thuế có thể hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước mọi lúc, mọi nơi, không bị bó hẹp trong giới hạn giờ làm việc hành chính của cơ quan thuế.
Áp dụng cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế theo đó căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh trong kỳ kê khai của mình và căn cứ vào các quy định của pháp luật về nghĩa vụ thuế tự tính ra số thuế phải nộp ngân sách Nhà nước, từ đó tự kê khai và tự thực hiện nghĩa vụ nộp số thuế đã kê khai vào Ngân sách Nhà nước theo đúng thời hạn qui định của pháp luật.
ii) Về kiểm tra, thanh tra thuế dựa trên cơ sở phân tích thông tin về người nộp thuế để lựa chọn đối tượng kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
iii) Luật quy định khung pháp lý cho hoạt động của tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế... Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế phải là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ có điều kiện, được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp, có ngành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế.28
Hiện nay, ở Việt Nam có gần 180 DN được cấp phép kinh doanh trong lĩnh vực làm dịch vụ thủ tục về thuế (đại lý thuế) nhưng chỉ có vài chục DN làm đúng chức năng đại lý thuế, với khoảng 700 DN khai thuế qua đại lý thuế. Trong khi đó, ở Nhật Bản, Hàn Quốc có trên 93% DN thực hiện khai thuế qua đại lý thuế.Hiện nay, ở Việt Nam có gần 180 DN được cấp phép kinh doanh trong lĩnh vực làm dịch vụ thủ tục về thuế (đại lý thuế) nhưng chỉ có vài chục DN làm đúng chức năng đại lý thuế, với khoảng 700 DN khai thuế qua đại lý thuế. Trong khi đó, ở Nhật Bản, Hàn Quốc có trên 93% DN thực hiện khai thuế qua đại lý thuế.29
Quy định này thể hiện sự cam kết của Việt Nam trong việc mở cửa thị trường kinh doanh dịch vụ khi vào WTO, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài không hiểu biết nhiều về pháp luật Việt Nam thuế thực hiện tốt nghĩa vụ thuế.
28 Xem Điều 20 Luật Quản lý thuế năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014
29 Nguyễn Thị Cúc – Chủ tịch hội tư vấn Thuế Việt Nam (2014), “Tạo bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính thuế”, Tạp chí Tài chính số 8 – 2014, tr.10.
Ngoài ra pháp Luật Quản lý thuế hiện nay cũng quy định về việc Cơ chế cơ quan thuế đặt hàng và sử dụng kết quả của các công ty kiểm toán độc lập, tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế để thực hiện kiểm tra quyết toán thuế của doanh nghiệp giải thể, chấm dứt hoạt động. Điều này sẽ giúp giảm gánh nặng cho cơ quan thuế.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Pháp Luật Quản Lý Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp
- Xây Dựng Hệ Thống Thông Tin Về Người Nộp Thuế
- Cưỡng Chế Thi Hành Quyết Định Hành Chính Liên Quan Đến Thuế Tndn
- Những Vướng Mắc Còn Tồn Tại Trong Công Tác Thi Hành Pháp Luật Quản Lý
- Pháp luật quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam - 10
- Pháp luật quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam - 11
Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.
iv) Luật Quản lý thuế quy định về trách nhiệm của cơ quan thuế với người nộp thuế. Nếu cơ quan thuế làm chậm các thủ tục, dẫn đến thiệt hại cho người nộp thuế thì phải đền bù thiệt hại cho người nộp thuế. Hoặc nếu công chức thuế tiết lộ các thông tin của người nộp thuế (vi phạm quy định về bảo mật thông tin) thì phải chịu trách nhiệm về thiệt hại gây ra cho người nộp thuế.
Luật Quản lý thuế quy định và đặt ra yêu cầu hiện đại hoá toàn diện công tác quản lý thuế TNDN cả về phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ và cả công nghệ quản lý.
2.1.3. Những vướng mắc còn tồn tại trong pháp luật quản lý thuế TNDN
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, pháp luật Quản lý thuế nói chung và Quản lý thuế TNDN nói riêng ở nước ta còn tồn tại một số hạn chế như sau :
Thứ nhất, Luật Quản lý thuế và hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành hiện nay không chỉ quy định những vấn đề chung về tổ chức thực hiện luật thuế, mà còn quy định cả những nội dung tổ chức thực hiện riêng của từng luật thuế (những vấn đề quản lý có tính chất đặc thù của từng sắc thuế) và hơn nữa số lượng của các điều luật quy định các nội dung quản lý đặc thù chiếm tỷ lệ khá nhiều.30 Điều này sẽ dẫn đến việc khi các luật về chính sách thuế được tiếp tục ban hành và đó là xu thế tất yếu đương nhiên kéo theo sự thay đổi, bổ sung của Luật Quản lý thuế và theo đó, vô hình trung, đã phá vỡ tính ổn định của Luật Quản lý thuế. Đối với những nội dung quản lý Thuế TNDN mang tính đặc thù nên xây dựng một văn bản hướng thi hành riêng hoặc quy định trong Luật thuế TNDN nhằm tránh tính trạng rườm rà, khó theo dõi và cập nhật. Điều này sẽ có hiệu ứng tốt hơn trong việc đảm bảo thực hiện các chính sách thuế của các chủ thể có nghĩa vụ thuế.
Thứ hai, theo quy định hiện nay cơ quan thuế được tổ chức theo mô hình lấy chức năng quản lý làm nguyên tắc bao trùm. Theo đó, cơ cấu gồm các bộ phận mà mỗi bộ phận
30 Ts. Nguyễn Thị Thương Huyền (2008), “Luật quản lý thuế và những vấn đề cần bàn thêm”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 19(135), tr.55-55.
thực hiện một chức năng quản lý thuế cơ bản đối với hầu hết các loại thuế (GTGT, TNDN,..) và đối với tất cả các đối tượng nộp thuế theo thẩm quyền được phân công. Các chức năng quản lý thuế cơ bản gồm: Tuyên truyền và hỗ trợ; xử lý tờ khai; quản lý nợ và cưỡng chế thuế; thanh tra, kiểm tra thuế… Điều này sẽ dẫn đến tồn tại những điểm chưa tương thích giữa Luật Quản lý thuế với thực tiễn vận hành của bộ máy quản lý thuế trong việc tổ chức thực hiện các luật thuế, đặc biệt là khi áp dụng cơ chế quản lý thuế theo mô hình “một cửa”.
Thực tế cho thấy, việc tổ chức bộ máy ngành thuế theo chức năng dẫn đến bất kỳ bộ phận nào cũng có thể yêu cầu doanh nghiệp trực tiếp làm việc, giải trình khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. Song khi cần hướng dẫn để được giải quyết các nghiệp vụ cụ thể phát sinh, doanh nghiệp không biết liên hệ đến bộ phận nào và thuộc thẩm quyền trách nhiệm của ai. Vì vậy, doanh nghiệp gặp những khó khăn nhất định trong quá trình thực thi pháp luật thuế theo luật.31
Chẳng hạn, việc lập và nộp hồ sơ quyết toán thuế TNDN, các bộ phận có liên quan đều có chức năng kiểm tra hồ sơ khai thuế của doanh nghiệp. Cụ thể, trước đây hồ sơ khai thuế của doanh nghiệp được thực hiện kiểm tra từ bộ phận một cửa; sau đó chuyển cho bộ phận kê khai và kế toán thuế, hiện nay do thực hiện kê khai điện tử nên bộ phận kê khai nhận dữ liệu; tuy nhiên sau đó lại tiếp tục chuyển đến các bộ phận khác có liên quan như bộ phận kiểm tra, thanh tra… mỗi bộ phận đều có quyền yêu cầu doanh nghiệp giải trình, vì vậy một doanh nghiệp trong một kỳ kê khai có thể nhận được 2-3 thông báo giải trình của cơ quan thuế nhưng không biết liên hệ đến những bộ phận nào để giải quyết. Hoặc về công tác thu nộp thuế, phòng kiểm tra thuế có chức năng thực hiện kế hoạch thu thuế được giao, vì vậy có trách nhiệm đôn đốc thu thuế. Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định rõ Phòng kiểm tra thực hiện đôn đốc thu từ ngày nào đến ngày nào, Phòng thu nợ và cưỡng chế thuế thực hiện từ khâu nào v.v..
Thứ ba, thiếu các quy định về nguyên tắc tổ chức hoạt động và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thuế và nguyên tắc xử lý mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý thuế, đặc biệt trong xu thế quản lý thuế hiện đại.
31 Ts.Nguyễn Thị Thương Huyền (2008), “Luật quản lý thuế và những vấn đề cần bàn thêm”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 19(135), tr.51-55.
Chẳng hạn, việc phân định một số chức năng còn hạn chế như tách bộ phận quản lý nợ và cưỡng chế thu hồi nợ với bộ phận kê khai kế toán thuế dẫn tới việc theo dõi, phân tích số liệu chưa liên hoàn và công tác đôn đốc thu nợ chưa hiệu quả; chế tài cưỡng chế thu nợ chưa đầy đủ nên chưa thực hiện được (hiện nay chủ yếu mới áp dụng biện pháp ra lệnh thu, trích tài khoản tiền gửi, dừng bán hoá đơn). Đây cũng là vấn đề đặt ra cần nghiên cứu cả về chức năng xử lý của cơ quan thuế trong việc thực hiện cưỡng chế thuế với việc bố trí tổ chức quản lý theo chức năng.
Thứ tư, Luật Quản lý thuế chưa xác định rõ cơ chế bảo đảm thực hiện, mức xử lý với các hành vi vi phạm còn quá nhẹ, vì vậy phần nào đã hạn chế tính khả thi của các quy định trong Luật Quản lý thuế và chính điều này chưa thực sự khuyến khích cũng như răn đe nhằm đàm bảo tính tuân thủ pháp luật của chủ thể có nghĩa vụ thuế. Đồng thời một số quy định của pháp luật Quản lý thuế cũng còn thiếu sót, hạn chế, gây khó khăn cho quá trình thực hiện, cụ thể :
Luật Quản lý thuế đã quy định trách nhiệm việc cung cấp các thông tin, tài liệu của các bên có liên quan cho cơ quan thuế và ngược lại. Tuy nhiên, chỉ cung cấp khi cơ quan thuế có yêu cầu, vì vậy có rất nhiều thông tin cần thiết nhưng cơ quan thuế không biết được đầu mối để cung cấp thông tin và yêu cầu cung cấp thông tin. Ví dụ như thông tin về tài khoản ngân hàng của doanh nghiệp, thường các doanh nghiệp mở rất nhiều tài khoản ở các ngân hàng thuộc các địa phương khác nhau nhưng cơ quan thuế không biết doanh nghiệp mở tài khoản ở ngân hàng nào để yêu cầu cung cấp. Vì vậy, cần có quy định cụ thể trách nhiệm của ngân hàng phải thông báo tài khoản của doanh nghiệp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý khi đăng ký tài khoản.
Về vấn đề xử phạt thuế, Điều 111 Luật quản lý Thuế hiện hành quy định các trường hợp miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế quy định doanh nghiệp được miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế trong những trường hợp: gặp thiên tai, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc trường hợp bất khả kháng khác. Nhưng có những trường hợp, chẳng hạn đối với doanh nghiệp nhà nước, tiền nộp thuế là tiền cấp từ ngân sách nhà nước nhưng ngân sách chậm cấp tiền làm ảnh hưởng đến tiến độ nộp thuế dẫn đến việc doanh nghiệp bị chậm nộp thuế và bị phạt một cách rất thiệt thòi. Thiết nghĩ, luật nên để một quy định mở
cho phép cơ quan thuế được tùy nghi quyết định trong một số trường hợp luật chưa dự liệu được trước.
Luật hiện hành chưa có quy định chung về nguyên tắc quản lý rủi ro để phân loại người nộp thuế nhằm quản lý chặt chẽ đối với người nộp thuế có rủi ro cao và có biện pháp ưu tiên đối với DN tuân thủ tốt. Tgian gần đây nhiều DN FDI vào Việt Nam hoạt động nhưng số thuế phải nộp không tương xứng với thực tế sản xuất kinh doanh, thậm chí có tình trạng khai lỗ nhiều năm liên tục nhưng vẫn mở rộng sản xuất kinh doanh mà nguyên nhân được xác định là do DN chuyển giá32.
Tuy nhiên Luật Quản lý thuế lại chưa có quy định cho phép áp dụng APA.33
Hoặc đối với các biện pháp chế tài cưỡng chế bằng biện pháp kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên đối với doanh nghiệp nợ thuế. Trong thực tế, việc xác định giá trị của tài sản, xác định tỷ lệ % trách nhiệm của cá nhân đối với tỷ lệ vốn góp vào doanh nghiệp, xác định và tính tỷ lệ tài sản của cá nhân đối với các tài sản có đồng sở hữu chưa có quy định hướng dẫn chi tiết dẫn đến việc cơ quan thuế nhiều khi còn thực hiện một cách tùy nghi, gây bức xúc cho các cá nhân, tổ chức.
Hiện tượng trốn thuế doanh nghiệp thường diễn ra ở phần kê khai chi phí, các doanh nghiệp thường cố tình khai tăng các khoản chi phí để giảm thu nhập chịu thuế. Vì vậy, cần quy định cụ thể các khoản chi phí hợp lý giảm thiểu hiện tượng gian lận thuế TNDN.
Tại Khoản 2 Điều 8 của Luật QLT quy định cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm “Giải thích, cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế”. Trong khi đó, luật cũng quy định các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tự kê khai, tính thuế, nộp thuế và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật để thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Nhưng Luật lại không quy định trong trường hợp cơ quan quản lý thuế giải thích, hướng
32 Ts.Phạm Tiến Hưng (2012), “Luật Quản lý thuế: Kết quả và những vấn đề sửa đổi, bổ sung”, Tạp chí Tài chính Online ngày 01/10/2012, link: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/nghien-cuu-dieu- tra/luat-quan-ly-thue-ket-qua-va-nhung-van-de-sua-doi-bo-sung-14026.html, truy cập ngày 23/4/2016.
33 Advance Pricing Arrangement –APA - một thỏa thuận có hiệu lực thi hành trong một khoảng thời gian không quá 05 năm, xác định các căn cứ tính thuế và phương pháp xác định giá thị trường của các giao dịch liên kết do cơ quan quản lý thuế xác định trước khi doanh nghiệp nộp tờ khai Thuế TNDN và tờ khai hải quan có liên quan.
dẫn sai dẫn đến việc người nộp thuế kê khai, tính thuế sai thì trách nhiệm của cơ quan thuế trong trường hợp này như thế nào.
Tại điều 32 Luật quản lý thuế hiện nay quy định thời hạn nộp hồ sơ khai thuế chậm nhất là ngày thứ 10 kể từ ngày phát sinh thuế đối với các loại thuế khai và nộp từng lần phát sinh. Tuy nhiên ngày phát sinh nghĩa vụ thuế là thời điểm nào, cụ thể như thế nào lại chưa có văn bản hướng dẫn chưa đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch. Tại điểm 2, Điều 32, Luật quản lý thuế quy định thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế TNDN năm chậm nhất là ngày thứ 90 ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính. Nhưng thực tế cho thấy thời gian 90 ngày là quá ngắn để doanh nghiệp tập hợp chứng từ phục vụ việc quyết toán, dẫn đến nhiều trường hợp doanh nghiệp đến hạn nộp hồ sơ quyết toán nhưng sau khi có kết quả kiểm toán lại phải làm hồ sơ điều chỉnh quyết toán thuế năm mất rất nhiều thời gian, công sức.
Ngoài ra trong công tác thanh tra, kiểm tra chưa có quy trình cụ thể hướng dẫn theo quy định của Luật Quản lý thuế, nên quy trình này vẫn đang thực hiện theo Quyết định hàng năm của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế34. Việc thay đổi thường xuyên quy chế cũng gây nhiều khó khăn trong việc thực hiện thanh tra, kiểm tra trên thực tế. Các quy định về kiểm tra, thanh tra thuế hiện nay cũng chưa đề cập rõ các vấn đề: giới hạn thời gian đối với hồ sơ thuế phải kiểm tra; chỉ số đánh giá hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, thanh tra còn thiếu, mới chỉ tập trung vào việc đánh giá hoàn thành kế hoạch về số lượng, số thuế truy thu sau thanh tra; thiếu chỉ số đánh giá về chất lượng, thái độ người nộp thuế đối với thanh tra thuế. Hiện nay, hoạt động thanh tra thuế gần như mới chỉ tập trung vào mục đích ngăn ngừa, phát hiện và xử lý vi phạt mà chưa để ý đến việc hiểu được các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ pháp luật thuế, dự báo các hành vi tuân thủ của người nộp thuế và tìm kiếm giải pháp có hiệu quả nhằm thúc đẩy sự tuân thủ hay phát hiện ra những quy định chưa hợp lý trong pháp luật quản lý thuế.
34 Hiện nay quy trình này đang được thực hiện theo Quyết định số 1404/QĐ-TCT ngày 28/7/2015 của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế về việc Ban hành quy trình Thanh tra thuế và Quyết định số 746/QĐ-TCT ngày 20/5/2015 của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế về việc Ban hành quy trình Kiểm tra thuế.
Về mặt chế tài, đến nay nhiều văn bản hướng dẫn Luật Quản lý thuế chi tiết đã được ban hành nhưng vẫn không đầy đủ các quy định. Ví dụ như Luật có quy định cụ thể trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc phối hợp cung cấp thông tin, trao đổi công tác trong quản lý thuế, nhưng lại chưa có những chế tài cụ thể về trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức có liên quan. Thêm vào đó, các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế cũng còn nhiều quy định chưa phù hợp: mức phạt thấp, chưa đủ sức răn đe; quy định áp dụng tuần tự các biện pháp cưỡng chế;…
Việc xử lý vi phạm về thuế không chỉ xây dựng xuất phát trên cơ sở mang tính răn đe mà còn phải tính đến việc bù đắp chi phí, vì công tác thanh kiểm tra, điều tra hành vi vi phạm thuế cần huy động nhiều người với sự hỗ trợ nhiều tổ chức, cơ quan, cá nhân và tốn chi phí. Nếu mức xử phạt hành vi trốn thuế, gian lận thuế từ 1-3 lần số tiền thuế trốn thì quá nhẹ, có thể cân nhắc nâng mức xử phạt lên tối thiểu 5 lần, và một phần khoản tiền phạt này sẽ được dùng cho hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế. Mức xử phạt phải đủ mạnh để người nộp thuế luôn phải nghĩ đến việc có bị vi phạm hay không, từ đó ý thức được lợi ích tuân thủ pháp luật thuế.
Như vậy có thể thấy Luật quản lý thuế là luật tổ chức thực hiện Luật thuế TNDN nói riêng và các luật thuế nói chung. Vì lẽ đó hiệu quả của các luật về chính sách thuế như Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật thuế Giá trị gia tăng,… phụ thuộc rất nhiều vào Luật quản lý thuế. Để Luật quản lý thuế đi vào cuộc sống, được thực thi một cách có hiệu quả trong thực tế thì ngày từ khi thiết kế, xây dựng, các nhà hoạch định phải xác định đúng quan điểm, định hướng xây dựng luật là phục vụ người dân, theo đó bộ máy quản lý vận hành chỉ là để thực thi thể chế và phục vụ nhân dân, chỉ khi được tạo dựng trên nền tảng cơ bản đó, các quy định cụ thể của Luật quản lý thuế mới được soạn thảo đúng hướng, đúng mục tiêu để trở thành một đạo luật hoàn chỉnh, vừa đáp ứng đầy đủ kịp thời yêu cầu của công tác quản lý, vừa phù hợp với ý nguyện của người nộp thuế. Tính pháp lý của các quy định về quản lý thuế chưa cao, dẫn đến hạn chế trong việc tuân thủ pháp luật thuế; các quy định về quản lý thuế còn phân tán tại nhiều văn bản pháp luật, có nội dung còn chưa thống nhất; quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm
pháp luật của các chủ thế tham gia quản lý thuế chưa được quy định đầy đủ, rõ ràng, ảnh hưởng đến việc thực hiện công tác quản lý thuế, công tác phòng chống, xử lý các hành vi vi phạm phát luật thuế, chống thất thu thuế còn hạn chế.
2.2 Thực trạng thi hành pháp luật quản lý thuế TNDN
2.2.1. Hiệu quả đạt được trong công tác thi hành pháp luật quản lý thuế nói
chung và quản lý thuế TNDN nói riêng
Luật Quản lý thuế được triển khai đồng bộ và thống nhất về các mặt: từ ban hành chính sách, cơ chế, tổ chức bộ máy quản lý thuế tới hướng dẫn thi hành từ cơ sở.
Về phía cơ quan quản lý thuế, công tác quản lý thuế đã hình thành một tổ chức thống nhất trong cả nước và từng bước được củng cố, tăng cường, kiện toàn cả về tổ chức bộ máy quản lý thuế và quy trình nghiệp vụ quản lý. Theo đó, tổ chức bộ máy của các phòng thuộc Tổng cục thuế,Văn phòng Cục Thuế và Chi cục Thuế trực thuộc Cục Thuế (các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) được chuyển đổi, sắp xếp lại theo mô hình chức năng, đáp ứng yêu cầu quản lý trong thời kỳ mới.
Công tác chỉ đạo, điều hành, phối hợp thực hiện nhiệm vụ chung của lãnh đạo Tổng cục thuế, các Cục Thuế, các Phòng, Chi cục Thuế có tính trọng tâm, trọng điểm, tập trung chủ yếu vào 4 chức năng chính là tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế, đăng ký kê khai thuế và kế toán thuế, kiểm tra, thanh tra, quản lý nợ và xử lý nợ đọng thuế.
Công chức, viên chức thuế được phân loại, đánh giá, sắp xếp, đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu, chuyên nghiệp theo chức năng quản lý. Đặc biệt, nhận thức cũng như trình độ chuyên môn của mỗi công chức, viên chức thuế được nâng cao hơn để đảm nhận tốt nhiệm vụ được giao.
Công tác tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế được đặt lên hàng đầu. Trong nỗ lực nâng cao hiệu quả hỗ trợ người nộp thuế, cơ quan thuế các cấp đã biên soạn tài liệu, kịp thời cung cấp thông tin, xây dựng các tài liệu hướng dẫn thực hiện Luật QLT; hỗ trợ trực tiếp tại cơ quan thuế, qua điện thoại hơn, giải đáp bằng văn bản, tổ chức tập huấn về chính sách và thủ tục hành chính thuế cho NNT.
Theo Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2015 của Chi cục thuế TP.Thanh Hóa: Chi cục đã phối hợp với Đài phát thanh Thành phố và đài Truyền hình Tỉnh, tuyên truyền