Định Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Kiểm Soát Hoạt Động Của Taxi Công Nghệ

CHƯƠNG 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT TAXI CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM‌

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật kiểm soát hoạt động của taxi công nghệ

3.1.1. Xác định địa vị pháp lý của các đơn vị cung cấp phần mềm ứng

dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực vận tải

Việc xuất hiện loại hình taxi công nghệ như Uber, Grab đã mang lại làn gió mới cho thị trường vận tải Việt Nam. Song sự lúng túng trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật và quản lý là điều nhìn thấy rõ ở các cơ quan nhà nước tại Việt Nam. Tốc độ phát triển của taxi công nghệ là như vũ bão khi chỉ sau vài năm hoạt động, các hãng taxi công nghệ trở thành ông lớn trong ngành kinh doanh vận tải và khiến các doanh nghiệp vận tải truyền thống lép vế; không chỉ vận tải mà những ứng dụng này đang có xu hướng tham gia và mở rộng lĩnh vực kinh doanh với các lĩnh vực khác để trở thành những siêu ứng dụng.

Các nhà hoạch định chính sách và lập pháp phải chấp nhận một thực tế rằng các công ty cung cấp phần mềm ứng dụng trong mô hình kinh tế chia sẻ của nền kinh tế số này sẽ biến động không ngừng chỉ trong tương lai gần. Trong khi đó, hệ thống pháp luật lại cần có tính ổn định, lâu dài, không thể thay đổi liên tục chạy theo các mô hình kinh doanh mới này. Chính vì vậy, chúng ta cần xây dựng một thể chế cho mô hình kinh doanh mới này một cách linh hoạt, hiệu quả [19].

Việt Nam chỉ là một nước đang phát triển nhưng chúng ta không đứng ngoài xu thế của kinh tế số, kinh tế chia sẻ. Mới đây, vào năm 2019, Chính phủ Việt Nam chính thức thông qua Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ với mong muốn mở đường cho sự phát triển của mô hình kinh tế chia sẻ ở

Việt Nam. Đề án này đã đề cập đến cơ chế thử nghiệm chính sách mới (dạng sandbox) cho việc triển khai và ứng dụng các công nghệ mới trong mô hình kinh tế chia sẻ. Đây là một tín hiệu đáng mừng và một cơ chế cần thiết [19].

Để xây dựng một hệ thống pháp luật mới điều chỉnh mô hình kinh doanh như taxi công nghệ, Quyết định 24/QĐ-BGTVT về kế hoạch thí điểm triển khai ứng dụng khoa học công nghệ hỗ trợ quản lý và kết nối hoạt động vận tải hành khách theo hợp đồng được coi là sự thử nghiệm cởi mở và tiến bộ. Nghị định 10/2020/NĐ-CP được coi là kết quả tổng kết kinh nghiệm thực tiễn quản lý mô hình taxi công nghệ ở Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

Theo định nghĩa trong Nghị định 10/2020/NĐ-CP, taxi công nghệ là kinh doanh vận tải vì khi đã thực hiện một trong số những công đoạn chính của hoạt động vận tải (điều hành phương tiện, lái xe, quyết định giá cước) cũng là kinh doanh vận tải. Khái niệm trên trái ngược với bản chất “sử dụng xe ô tô để thực hiện vận tải” được quy định trong Luật Giao thông đường bộ. Một sản phẩm dịch vụ bao giờ cũng đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên liên quan với những vai trò riêng. Nền kinh tế càng phát triển thì chuỗi cung ứng càng đa dạng và có xu hướng chuyên môn hóa. Do đó, việc bóc tách các loại hình dịch vụ mới như taxi công nghệ để định danh cần được xem xét cẩn trọng [21].

Nguy hiểm hơn về hệ lụy của khái niệm khi ép doanh nghiệp kinh doanh công nghệ kiêm thêm vai trò kinh doanh vận tải là sẽ biến đổi bản chất hoạt động của đơn vị cung cấp phần mềm, triệt tiêu phần lớn những ưu điểm mà mô hình kinh tế chia sẻ mang lại, biến nó trở thành một phương thức liên lạc không hơn.

Pháp luật kiểm soát hoạt động của taxi công nghệ ở Việt Nam - 12

Nhưng Nghị định 10/2020/NĐ-CP, khi áp dụng vào thực tiễn, cũng sẽ có thể trở thành một sandbox cho những bộ luật, quy định mới mang tính tiến bộ hơn. Nhận diện dịch vụ kinh doanh kiểu Grab theo đúng bản chất của nó

phải là môi giới công nghệ trong lĩnh vực vận tải. Chúng ta không ép cái mới vào cái cũ để quản lý, chúng ta cần đánh giá tác động pháp lý, kinh tế, xã hội của những quy định pháp luật với các mô hình taxi công nghệ một cách khách quan để thấy mức độ phù hợp của luật pháp chứ không phải chỉ để tiện cho cơ quan quản lý và thiên vị cho các doanh nghiệp truyền thống.

Các nhà lập pháp phải chấp nhận sự tồn tại song hành của hai hệ thống quy định cho các mô hình vận tải mới trong nền kinh tế chia sẻ ứng dụng nền tảng số và mô hình kinh doanh vận tải truyền thống. Mỗi cơ quan quản lý đều được quy định cụ thể trách nhiệm: Bộ Tài chính có trách nhiệm thu thuế của taxi công nghệ; Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm trong việc kiểm định đơn vị vận tải đủ điều kiện tham gia kinh doanh vận tải hành khách và Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) giải quyết chống kinh doanh, cạnh tranh không lành mạnh… nên không cần phải “ép” taxi công nghệ vào ngành vận tải truyền thống, Nhà nước vẫn có thể quản lý hoạt động của taxi công nghệ mà không gây tổn hại tới lợi ích công nào. Thị trường là cơ chế sàng lọc tốt nhất, người tiêu dùng phải được lợi và Nhà nước chỉ đóng vai trò là điều tiết, quản lý chứ về nguyên tắc Nhà nước không thay đổi thị trường.

3.1.2. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới, cập nhật để điều chỉnh các quan hệ kinh tế chia sẻ trong lĩnh vực kinh doanh vận tải, đảm bảo nhu cầu phát triển khách quan của kinh tế - xã hội Như đã trình bày ở Chương 1, do sự khác biệt của phương thức kinh doanh dựa trên nền tảng số, vai trò của các chủ thể trong mô hình kinh doanh taxi công nghệ đã có sự thay đổi rất lớn so với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải truyền thống. Vì vậy, chúng ta không thể tiếp tục sử dụng các quan niệm truyền thống của hệ thống luật pháp để xác định vai trò và địa vị pháp lý

của các chủ thể trên, mà cần xây dựng hệ quy chiếu pháp luật mới phù hợp.

Kinh tế chia sẻ, một mô hình kinh tế mới ra đời và phát triển cùng với

sự bùng nổ của công nghệ thông tin, nó trở thành mối quan tâm của tất cả các quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, tháng 2/2018, hiện tượng kinh tế chia sẻ đã được bàn đến trong chương trình nghị sự của Chính phủ. Với tinh thần hỗ trợ cải cách nền kinh tế, khuôn khổ pháp luật để thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 ở Việt Nam [24].

Và gần đây nhất, tháng 8/2019, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 999/QĐ-TTg phê duyệt đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ. Nghị định 10/2020/NĐ-CP ra đời với mục đích mang theo tinh thần của đề án trên nhưng Nghị định 10/2020/NĐ-CP mới thực hiện được 2 trong 3 định hướng của Quyết định 999/QĐ-TTg là bảo đảm môi trường kinh doanh bình đẳng giữa đơn vị kinh doanh vận tải mới ứng dụng khoa học công nghệ và các đơn vị kinh doanh vận tải truyền thống; tăng cường bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia mô hình taxi công nghệ bao gồm đơn vị cung cấp dịch vụ vận tải trực tiếp, khách hàng và doanh nghiệp cung cấp nền tảng số. Nghị định 10/2020/NĐ-CP chưa thực hiện được định hướng khuyến khích đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, khuyến khích thử nghiệm các mô hình mới khi ép taxi công nghệ vào các loại hình kinh doanh vận tải truyền thống.

Cần rà soát, nghiên cứu sửa đổi các quy định liên quan tới hoạt động kinh doanh và điều kiện kinh doanh của taxi công nghệ; đặc biệt là tới đây sẽ sửa đổi Luật Giao thông đường bộ năm 2008; không chỉ có loại hình taxi công nghệ là mới mà sẽ có nhiều loại hình, phương tiện lần đầu tiên xuất hiện như xe tự lái, những phương tiện vừa đi trên trên bộ lẫn dưới nước hoặc vừa tham gia giao thông đường bộ đồng thời lại có thể bay… nên trong những quy định của pháp luật chúng ta cần thay đổi tư duy chấp nhận cá mới, thể hiện tầm nhìn xa để phù hợp tốc độ biến đổi của công nghệ; nếu không, các chính sách pháp luật của chúng ta sẽ luôn lạc hậu, luôn cũ, không chạy theo kịp mô hình kinh tế mới.

Pháp luật cần thừa nhận mô hình kinh doanh taxi công nghệ như một thực tế khách quan và tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự. Nhà nước chỉ can thiệp vào những hạn chế của mô hình này và có cơ chế, hành lang pháp lý để cảnh báo sớm những rủi ro, bảo vệ nhà cung cấp dịch vụ, lái xe, hành khách trong quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp cung cấp ứng dụng vận tải.

3.1.3. Thiết lập hệ thống quy phạm pháp luật kiểm soát hoạt động của taxi công nghệ một cách đồng bộ, toàn diện

Dựa trên quan điểm của Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ của Thủ tướng Chính phủ là không cần thiết phải có các chính sách riêng biệt cho hình thức kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ bởi đây không phải là bộ phận tách rời hoặc một thành phần kinh tế riêng trong nền kinh tế; và cũng không thể xây dựng một chế định độc lập quy định về taxi công nghệ và các chủ thể trong mô hình kinh tế này mà nó sẽ được quy định lồng ghép trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của loại hình taxi công nghệ.

Cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Thương mại điện tử, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư cùng với các văn bản dưới Luật hướng dẫn thi hành, theo đó hướng tới khuyến khích đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, phát triển nền kinh tế số, bảo đảm mang lại công bằng cho các đơn vị vận tải truyền thống, cho cả những chủ thể yếu thế trong mối quan hệ với các doanh nghiệp cung cấp ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực vận tải là người tiêu dùng và các tài xế.

Trong quá trình xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật này, cần đảm bảo tính thống nhất, thậm chí cần cả những văn bản pháp luật có tính liên ngành về mô hình kinh doanh taxi công nghệ. Tính thống nhất là yêu cầu

được đặt ra đối với cả hệ thống pháp luật cũng như với từng văn bản quy phạm pháp luật và quy phạm pháp luật. Thực tế hiện nay còn rất nhiều trường hợp văn bản quy phạm pháp luật được ban hành không đảm bảo tính thống nhất. Ví dụ như Trong thời gian thực hiện thí điểm, giải thích và áp dụng pháp luật đối với mô hình taxi công nghệ, ba Bộ liên quan là Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công thương và Bộ Thông tin Truyền thông đưa ra sự giải thích địa vị pháp lý khác nhau và cơ chế áp dụng khác nhau với một mô hình taxi công nghệ. Để thực hiện được mục tiêu này thì các cơ quan có thẩm quyền cần tiến hành việc kiểm tra, rà soát các quy định của pháp luật nhằm phát hiện và loại bỏ những mâu thuẫn, chồng chéo xảy ra trong hệ thống pháp luật. Điều này càng quan trọng hơn với các quan hệ kinh tế mới như trong mô hình kinh doanh taxi công nghệ khi mà các quy định điều chỉnh vẫn trong giai đoạn xây dựng và thực hiện. Cần một sự hợp tác, thông nhất liên Bộ, liên ngành khi chúng ta ban hành và thực thi các chính sách pháp luật điều chỉnh các chủ thể trong mô hình kinh doanh taxi công nghệ.

3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả kiểm soát hoạt động của taxi công nghệ

* Thứ nhất: Bổ sung, hoàn thiện và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cung cấp nền tảng công nghệ trong kết nối vận tải

Xuất hiện ở nước ta từ sáu năm trở lại đây, mô hình taxi công nghệ đã đi vào trong cuộc sống và trở thành một trong những lựa chọn không thể thiếu được khi người dân có nhu cầu đi lại, do đó yêu cầu phải có những quy định đặc thù để điều chỉnh quan hệ này là nhu cầu tất yếu.

Nghị định 10/2020/NĐ-CP quy định taxi công nghệ phải chọn mô hình kinh doanh hoặc là trở thành taxi truyền thống hoặc là xe hợp đồng, ứng dụng kết nối vận tải chia sẻ xe trở thành một phương thức liên lạc. Bộ giao thông vận

tải – đơn vị soạn thảo 11 lần dự thảo và chính thức nghị định 10/2020/NĐ-CP quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô cho biết trong quá trình soạn thảo bộ đã nhận được rất nhiều ý kiến đóng góp cho biết trong quá trình soạn thảo bộ nhận được rất nhiều ý kiến đóng góp về taxi công nghệ từ đa dạng những chủ thể khác nhau. Bộ giao thông vận tải nghiêm túc tiếp thu tất cả những ý kiến này, đồng thời phân nhóm những vấn đề này để nghiên cứu, sửa đổi. Tuy nhiên khi xây dựng nghị định 10/2020/NĐ-CP, Bộ giao thông vận tải vẫn phải lấy căn cứ, bám sát những quy định quản lý và pháp luật hiện hành trong đó có Luật giao thông đường bộ năm 2008, Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã… một số ý kiến đóng góp vượt quá quy định như Luật giao thông đường bộ chưa cho phép, phải sửa đổi từ luật mới có thể đưa vào được.

Kỳ vọng là trong bộ luật, văn bản dưới luật mới trong tương lai ra đời sẽ thực sự cải thiện khung khổ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sáng tạo, tôn trọng tính mới trong mô hình kinh doanh taxi công nghệ, khuyến khích khai thác lợi thế chia sẻ kết nối, lợi thế công nghệ như tinh thần của quyết định số 999/QĐ-TTg [19].

Trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật để tìm ra cách thức đối xử phù hợp với loại hình taxi công nghệ chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác. Đặc biệt các quốc gia láng giềng, có nền văn hóa và mức độ phát triển kinh tế xã hội tương đồng. Singapore coi Uber, Grab là các doanh nghiệp cung cấp công nghệ; Malaysia cho rằng đây là công ty trung gian, Indonesia đưa ra một loại hình dịch vụ xe hợp đồng đặc biệt mới; Philippines coi taxi công nghệ là dịch vụ mạng kết nối vận tải. Các quốc gia đều hợp pháp hóa taxi công nghệ từ rất sớm; có những quy định thông thoáng, cởi mở với mô hình này nhưng vẫn đặc biệt chú trọng chất lượng dịch vụ vận tải cho người tiêu dùng. Thậm chí Malaysia có Grab, Indonesia có Go-Ject,

Thái Lan đang xây dựng một nền tảng vận tải riêng cho quốc gia mình [3]. Đón đầu công nghệ, phát triển những công ty nội địa lớn mạnh vươn ra cả khu vực trong lĩnh vực vận tải nói riêng và cả hệ sinh thái khổng lồ qua nền kinh tế chia sẻ cần có sự ủng hộ pháp lý từ các cơ quan nhà nước.

Do đó, Việt Nam cần xem xét quy định taxi công nghệ thành một loại hình vận tải hành khách hoặc cung cấp dịch vụ vận tải riêng. Pháp luật phải luôn thay đổi để bắt kịp với sự vận dộng của đời sống. Quyết định 24/QĐ- BGTVT hay nghị định 10/2020/NĐ-CP có thể là những phép thử đánh giá mô hình này. Cần phải có những tổng kết, đánh giá ưu điểm, hạn chế và yêu cầu điều chỉnh pháp luật với mô hình taxi công nghệ này một cách nghiêm túc, khách quan. Đây sẽ là tư liệu hữu ích cho các bộ, ban ngành liên quan xây dựng chính sách, pháp luật quản lý loại hình taxi công nghệ.

* Thứ hai: Tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp kinh doanh taxi công nghệ và các doanh nghiệp kinh doanh vận tải truyền thống

Bước vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong việc ban hành và sửa đổi hệ thống pháp luật nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thông thoáng minh bạch, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp. Tuy nhiên trước sự xuất hiện của những mô hình kinh tế mới, như trong lĩnh vực vận tải là taxi công nghệ đã tạo ra sự cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp truyền thống đòi hỏi Nhà nước cần thiết lập, củng cố môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh là vấn đề rất cần được quan tâm.

Tại Việt Nam, đỉnh điểm của tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh vận tải giữa taxi công nghệ và taxi truyền thống là vụ kiện kéo dài ba năm giữa Vinasun và Grab. Trong vụ kiện này nhiều người ví von đây chẳng khác nào hành động con trâu đi kiện máy cày để hàm ý là việc vô lý [37]. Câu hỏi đặt

Xem tất cả 116 trang.

Ngày đăng: 29/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí