Đối với khoản vay ngoại tệ thì người đi vay sẽ phải trả cả lãi và gốc tùy theo thỏa thuận vào các mốc thời gian trong tương lai. Hay có thể nói, người đi vay có nhu cầu về ngoại tệ trong tương lai và có thể bảo hiểm rủi ro tỷ giá bằng cách mua hợp đồng quyền chọn mua ngoại tệ tương tự như trường hợp cần ngoại tệ để thanh toán hợp đồng nhập khẩu.
Bảo hiểm khoản đầu tư bằng ngoại tệ
Đối với khoản đầu tư bằng ngoại tệ thì nhà đầu tư sẽ nhận được một khoản tiền ngoại tệ trong tương lai. Vì vậy, nhà đầu tư có thể bảo hiểm rủi ro tỷ giá bằng cách mua hợp đồng quyền chọn bán ngoại tệ tương tự như trường hợp bảo hiểm khoản thu xuất khẩu.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG HỢP ĐỒNG NGOẠI HỐI PHÁI SINH TRONG BẢO HIỂM RỦI RO TỶ GIÁ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM
I. Vai trò của các doanh nghiệp XNK trong nền kinh tế và tình hình XNK của Việt Nam trong thời gian qua
1. Vai trò của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Doanh nghiệp XNK là các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Đó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài, nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân.
Các doanh nghiệp XNK đóng vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế thông qua các hoạt động của mình, cụ thể là hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu:
Nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của TMQT, nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống. Nhập khẩu để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà sản xuất trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những thứ mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi, làm được như vậy sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn, cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa học kĩ thuật. Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động, góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
Xuất khẩu
Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu, là hoạt động kinh doanh để đem lại lợi nhuận lớn và là phương tiện thúc đẩy kinh tế. Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân: sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống của nhân dân. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước. Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu.
2. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua
2.1 Những thành tựu đạt được
Trước đây ngoại thương Việt Nam do Nhà nước độc quyền quản lý và điều hành và chủ yếu được thực hiện việc trao đổi hàng hoá theo nghị định thư giữa các Chính phủ. Do đó mà hoạt động thương mại trở nên kém phát triển. Từ khi đổi mới cơ chế thị trường, nền kinh tế của nước ta đã có sự chuyển đổi sâu sắc và toàn diện đặc biệt là trong lĩnh vực XNK.
Nếu như trước đây, Việt Nam chủ yếu buôn bán với Liên Xô và Đông Âu thì hiện nay hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có mặt trên 140 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việc chuyển hướng kịp thời đã tạo điều kiện để mở rộng qui mô XNK, lựa chọn bạn hàng phù hợp và giúp cho nền kinh tế tăng trưởng một cách liên tục.
Các nước Châu Á: Là thị trường buôn bán chủ yếu của Việt Nam; trong đó, Nhật Bản, ASEAN và Trung Quốc là những bạn hàng lớn. Thị trường Châu Á là thị trường tương đối ổn định và đầy triển vọng.
Thị trường EU: Phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu, được xây dựng trên cơ sở những mối quan hệ truyền thống và những thiết chế luật pháp được hai bên cam kết và tuân thủ. EU là thị trường tiêu thụ hàng hoá công nghiệp nặng và hàng tiêu dùng lớn nhất của Việt Nam.
Liên Bang Nga : Là thị trường truyền thống và nhiều tiềm năng, hấp dẫn đối với các doanh nghiệp của Việt Nam
Ngoài ra, mối quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước khác như thị trường châu Mỹ cũng có nhiều triển vọng.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanhXNK. Nhờ đó, một số sản phẩm hành hóa và dịch vụ, như gạo, dệt may… không những đứng vững ở thị trường trong nước mà còn có khả năng vươn ra thị trường nước ngoài, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó, Nhà nước còn tích cực cải cách hành chính để hạn chế các thủ tục phiền hà liên quan đến hoạt độngXNK; tiến tới giảm hoặc bỏ quản lý theo hạn ngạch; khuyến khích đầu tư sản xuất xuất khẩu, khuyến khích các công ty đổi mới công nghệ; ban hành nhiều văn bản pháp luật hoặc sửa đổi nhiều luật liên quan đến XNK theo hướng tiến bộ.
Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu cũng được xác định có vai trò hết sức quan trọng, hướng tới mục tiêu phục vụ cho sự phát triển nội địa, cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhanh chóng hội nhập với khu vực, thế giới…Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu có sự chuyển biến theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng máy móc, thiết bị nguyên nhiên liệu phục vụ cho sản xuất, giảm dần tỷ trọng hàng tiêu dùng. Kết quả là chúng ta đã thu được những thành tựu vượt bậc trong hoạt động XNK,
tổng kim ngạch XNK gần như tăng qua từng năm. (Đơn vị: triệu USD)
Tổng KNXNK | KNXK | KNNK | XK-NK | |
1993 | 6.876,0 | 2.952,0 | 3.924,0 | -972,0 |
1994 | 9.880,1 | 4.054,0 | 5.825,8 | -1.771,8 |
1995 | 13.604,3 | 5.448,9 | 8.155,4 | -2.706,5 |
1996 | 18.399,5 | 7.255,9 | 11.143,6 | -3.887,7 |
1997 | 20.777,3 | 9.185,0 | 11.592.3 | -4.336,4 |
1998 | 20.859,9 | 9.360,3 | 11.499,6 | -2.139,3 |
1999 | 23.283,5 | 11.541,4 | 11.742,1 | -200,7 |
2000 | 30.119,2 | 14.482,7 | 15.636,5 | -1.153,8 |
2001 | 31.189,0 | 15.027,0 | 16.162,0 | -1.135,0 |
2002 | 34.300,0 | 16.100,0 | 18.200,0 | -2.100,0 |
2003 | 45.405,1 | 20.149,3 | 25.255,8 | -5.106,5 |
2004 | 58.453,8 | 26.485,0 | 31.968,8 | -5.483,8 |
2005 | 69.208,2 | 32.447,1 | 36.761,1 | -4.314,0 |
2006 | 84.717,3 | 39.826,2 | 44.891,1 | -5.064,9 |
2007 | 111.243,6 | 48.561,4 | 62.682,2 | -14.120,8 |
2008 | 146.149,0 | 63.862,0 | 82.287,0 | -18.425,0 |
2009 | 130.914,4 | 56.588,2 | 74.326,2 | -17.738,0 |
Có thể bạn quan tâm!
- Chế Độ Tỷ Giá Hối Đoái Và Mối Quan Hệ Với Rủi Ro Tỷ Giá
- Phân Loại Hợp Đồng Ngoại Hối Phái Sinh
- Các Phương Án Xảy Ra Với Nhà Nk Mua Quyền Chọn Mua Usd
- Thực Trạng Rủi Ro Tỷ Giá Đối Với Doanh Nghiệp Xuất Nhập Khẩu Việt Nam
- Đánh Giá Tính Chất, Mức Độ Tác Động Của Rủi Ro Tỷ Giá Đối Với Doanh Nghiệp Xnk Việt Nam
- Giá Trị Các Giao Dịch Phái Sinh Tiền Tệ Tại Eximbank
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Bảng 4: Kim ngạch xuất nhập khẩu thời kỳ 1993 - 2009
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2010)
Có thể nói, hoạt động XNK của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, hình thành nhiều ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, tạo việc làm cho người lao động, tạo cơ sở và khuyến khích các nước hợp tác quốc tế và đầu tư vào Việt Nam, từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
2.2 Một số mặt còn tồn tại
Mặc dù đạt được những thành tựu đáng kể, song, ngoại thương Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế được thể hiện qua một số mặt sau.
Về xuất khẩu: Tốc độ tăng trưởng còn thấp và không đều qua các năm, dễ bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng khu vực và thế giới.Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu còn lạc hậu, chất lượng thấp, mặt hàng manh mún, sức cạnh tranh còn yếu. Xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô chưa qua chế biến, sản phẩm của các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản vẫn là các mặt hàng chủ yếu.
Về nhập khẩu: Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu liên tục tăng , nước ta vẫn là nước nhập siêu cao; hơn nữa, nhập khẩu lãng phí, kém hiệu quả,việc buôn lậu trở nên nghiêm trọng, gây tổn thất lớn.
Về bạn hàng: Thị trường bấp bênh, chủ yếu qua trung gian, vẫn thu hẹp ở thị trường các nước trong khu vực, chưa phát triển nhiều ra các nước trên thế giới; thiếu hụt các hợp đồng lớn và dài hạn. Mặc dù thị trường có được mở rộng nhưng lượng xuất khẩu vẫn còn hạn chế, gây bất lợi cho hàng hoá của nước ta.
Cơ chế quản lý XNK: Chưa chặt chẽ để kiểm soát và ngăn chặn buôn lậu, chưa khuyến khích xuất khẩu, thủ tục còn nhiều rườm rà, bất cập, thông tin về thị trường còn thiếu, chưa kịp thời và thiếu chính xác.
II. Thực trạng rủi ro tỷ giá đối với các doanh nghiệp XNK Việt Nam
1. Sự biến động của tỷ giá trên thị trường ngoại hối trong thời gian qua
Diễn biến tỷ giá của các đồng tiền trên thị trường ngoại hối là hết sức phức tạp và tác động đến nhiều yếu tố của nền kinh tế. Tuy nhiên, khóa luận sẽ chỉ nghiên cứu biến động của tỷ giá dưới góc độ ảnh hưởng đến doanh nghiệp XNK Việt Nam. Rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp chủ yếu là do những biến động của tỷ giá các ngoại tệ mà hầu hết các hoạt động XNK đều sử dụng đến như USD, EUR, JPY… Trong đó, đồng USD là quan trọng nhất do chiếm 90% trong giao dịch thương mại, 80% trong thanh toán xuất khẩu, 90% trong thanh toán nhập khẩu, khoảng 87-88% giao dịch vốn, vay nợ… của Việt Nam21.
Sau đây khóa luận sẽ trình bày những nghiên cứu về diễn biến tỷ giá trên thị trường Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1997 đến nay (3/2010) - giai đoạn diễn ra hai cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ lớn trên phạm vi quốc tế và cũng là giai đoạn phát triển của thị trường bảo hiểm rủi ro tỷ giá Việt Nam từ bước sơ khai.
1.1 Giai đoạn 1997 -199822
Đây là giai đoạn diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á xuất phát từ Thái Lan vào tháng 7 năm 1997, sau đó lan rộng ra các nước châu Á khác và gây ảnh hưởng tới kinh tế toàn cầu. Đồng nội tệ của các nước khu vực Đông Nam Á như Singapore, Indonesia, Malaysia, Phillipines… giảm giá mạnh so với đô la Mỹ. Việt Nam do chưa thực sự hòa nhập vào thị trường khu vực và thế giới
21 Công Trí , 2010, Bài học 10 năm cho xuất khẩu 2010. (http://news.vibonline.com.vn/Home/sk_bl/2010/01/5451.aspx) 22 Lý Hà , 2008, Khủng hoảng kinh tế: Bài học nhìn từ Thái Lan.
(http://vneconomy.vn/20081119093924202P0C6/khung-hoang-kinh-te-bai-hoc-nhin-tu-thai-lan.htm)
nên chịu ảnh hưởng ít hơn. Tuy nhiên, tâm lý không an tâm vào sự ổn định của đồng Việt Nam đã gây sức ép giảm giá mạnh VND. Tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do tăng cao vào cuối năm 1997: cuối tháng 6/1997 là 11.700-11.800, đến cuối năm là 13.000 và lúc cao nhất là 14.600 - 15.000 vào tháng 9 năm 1997, đồng thời có sự chênh lệch lớn giữa thị trường chính thức và tự do.
Để giải tỏa sức ép về tỷ giá, đưa hoạt động giao dịch ngoại hối trở lại bình thường, NHNN đã thực hiện một loạt biện pháp, khiến cho mức biến động tỷ giá chính thức gần hơn với mức biến động trên thị trường tự do – vốn rất phức tạp:
(1) Nới rộng biên độ giao dịch từ +/-1% lên +/-5% vào tháng 3/1997 và tiếp tục lên +/-10% vào ngày 13/10/1997; thu hẹp xuống +/-7% vào 07/08/1998 vì NHNN nhận thấy mức +/-10% là khá nguy hiểm.
(2) Ban hành quy chế mới về nghiệp vụ mua bán ngoại tệ và các trạng thái ngoại tệ.
(3) Hai lần chủ động phá giá VND: lần thứ nhất đưa tỷ giá USD/VND từ
11.175 lên 11.800 (ngày 16/2/1998); lần thứ hai đưa tỷ giá USD/VND lên tới 12.998 (ngày 7/8/1998).
Nhìn chung, trong hai năm 1997-1998, tỷ giá được điều chỉnh theo hướng tăng mạnh: năm 1997 tăng 14,2% so với năm 1996, năm 1998 tăng 9,2% so với năm 1997. Cuối năm 1997 và suốt năm 1998, thị trường Việt Nam luôn xảy ra tình trạng cầu ngoại tệ lớn hơn cung.
1.2 Giai đoạn 1999-2006
Cơ chế điều hành có sự thay đổi lớn, NHNN bắt đầu công bố tỷ giá giao dịch bình quân của VND so với USD trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hàng ngày thay cho tỷ giá chính thức từ ngày 16/02/1999 sau hai quyết định