Phân tích tình hình hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng TMCP Việt Á – Chi nhánh Cần Thơ - 8


tạo một tiếng nói riêng mạnh mẽ cho cộng đồng thương mại và ngân hàng Việt Nam.

5.2.1.2 Hạn chế tối đa các rủi ro trong thanh toán quốc tế

Trong thanh toán quốc tế, tuỳ thuộc vào phương thức thanh toán do người xuất nhập khẩu sử dụng mà vị trí vai trò của ngân hàng, cũng như những rủi ro và thu nhập của nó cũng sẽ khác nhau.

Đối với các phương thưc đơn giản như chuyển tiền, nhờ thu… thì vai trò của ngân hàng chỉ làm trung gian trong việc thực hiện lệnh chi trả hay nhò thu cho khách hàng để thu phí mà không chịu trách nhiệm trong việc có thu được tiền hay không, hay không thể chủ động trọng việc thanh toán. Vì vậy khi tham gia các phương thức này ngân hàng ít bị rủi ro là mất tiền hay không thu được tiền do người bán không thực hiện hợp đồng hay người mua không chịu trả tiền và ngân hàng cũng chỉ thu được lợi nhuận bằng phí các bên trả khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng.

Đối với các phương thức phức tạp như tín dụng chứng từ ngoài việc thu phí mở tín dụng thư, ngân hàng còn sẽ thu được thêm phí tu chỉnh, sửa đổi, xác nhận bảo lãnh hoặc thêm các dịch vụ khác nếu có do khách hàng yêu cầu nhằm đảm bảo an toàn trong thanh toán của khách hàng, tuy nhiên đối với từng dịch vụ cung cáp tuỳ thuộc vào trách nhiệm nặng hay nhẹ mà ngân hàng thu phí cao hay thấp; đối với các tín dụng thư đòi hỏi sự bảo lãnh, xác nhận của ngân hàng…trách nhiệm của ngân hàng rất cao vì phải đứng ra cam kết thanh toán cho người bán (người hưởng lợi) rủi ro sẽ xảy ra khi người mua do nhiều lý do mà huỷ bỏ L/C hay không nhận hàng, từ chối bộ chứng từ không hợp lệ ngân hàng thì lại không bắt bắt buộc ký quỹ 100% trị giá L/C đối với những khách hàng đó thì ngân hàng sẽ phải lãnh chịu. Hoặc do tính chất phức tạp của nhiều loại L/C làm cho việc kiểm tra bộ chứng từ có nhiều khó khăn ngân hàng kiểm tra bỏ qua nhứng sai sót và đã thanh toán cho người hưởng lợi nhưng người mua lại phát hiện và từ chối thanh toán bộ chứng từ, ngân hàng phải tìm cách giải quyết bộ chứng từ và lô hàng đó.


5.2.1.3 Hoàn thiện hệ thống luật pháp về quản lý ngoại hối, thanh toán quốc tế và xuất nhập khẩu

Do phương thức L/C là một phương thức đã, đang và vẫn sẽ được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam, do đó cần có các văn bản pháp lý giải thích rõ ràng về mối quan hệ giữa tập quán quốc tế và luật pháp trong nước. Chẳng hạn khi có xụng đột giữa UCP với các luật pháp trong nước như luật pháp về xuất nhập khẩu, ngân hàng, quản lý ngoại hối thì các bên tham gia sẽ áp dụng nguồn luật nào. Hoặc cần gợi ý các ứng xử cần có của các bên khi quyền loqị của quốc gia bị vi phạm dù đã áp dụng UCP.

Do đó pháp luật Việt Nam cần cụ thể hoá hơn nữa về cách giải quyết khi có xung đột giữa UCP và luật Việt Nam. Cụ thể là cần có một văn bản pháp luật riêng trả lời được các câu hỏi sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 76 trang tài liệu này.

- Tính chất pháp lý của UCP đối với các bên Việt Nam tham gia phương thức thanh toán bằng L/C.

- Các xung đột và cách giải quyết các xung đột giữa luật pháp Việt Nam, luật của các quốc gia khác và tập quán quốc tế về phương thức thanh toán bằng L/C.

Phân tích tình hình hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng TMCP Việt Á – Chi nhánh Cần Thơ - 8

Đây phải là một văn bản độc lập và đầy đủ bởi phương thức thanh toán bằng L/C ngày càng được khẳng định bởi vị trí và tầm quan trọng đối với sự phát triển thương mại nói riêng và phát triển kinh tế nói chung của Việt Nam.

Một vấn đề nữa là phải tăng tính cưỡng chế của các phán quyết: các phán quyết của trọng tài hoặc các toà án dựa trên UCP phải được các bên Việt Nam thực hiện. Ở Việt Nam hiện nay có một thực trạng là với quá trình tham gia hội nhập kinh tế, trong quan hệ với các bên nước ngoài, các bên Việt Nam thường phải hành động theo thông lệ quốc tế. Thế nhưng quan hệ giữa các bên trong nước, luật pháp chưa thực sự đảm bảo quyền lợi cho các bên và tính cưỡng chế còn thấp. Chính sự không đồng bộ trong mức độ phát triển về luật pháp trong nước và luật pháp quốc tế là một nguyên nhân gây ra các tranh chấp giữa các bên.


toán

5.1.2.4 Tư vấn cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong quá trình thanh


- Tư vấn cho khách hàng là những người xuất khẩu qua trung gian nên lựa

chọn loại tín dụng thư nào để đảm bảo quyền lợi

Ngày nay hình thức mua bán qua trung gian rất phổ biến trong hoạt động xuất nhâpk khẩu, sự tồn tại của những người trung gian này thật sự cần thiết vì nó tạo điều kiện cho người mua, mua được hàng và người bán tiêu thụ được hàng hoá mà cả hai bên đã mua và bán không biết nhau để thực hiện ý định.

Nhà xuất khẩu Việt Nam đang đứng trước thị trường tiêu thụ rộng lớn và xa lạ, cho nên bước đầu tiên thường cần những người trung gian để bán được sản phẩm của mình. Cho dù bán qua trung gian họ sẽ không có lời nhiều nhưng qua đó họ sẽ học hỏi kinh nghiệm và mở rộng quan hệ buôn bán tìm hiểu thị trường.

Để giúp cho nhà xuất khẩu giảm bớt rủi ro khi áp dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ với các loại tín dụng đặc biệt, ngân hàng cần tư vấn cho khách hàng là nhà xuất khẩu nên cẩn trọng và lựa chọn loại tín dụng thư đặc biệt mang lại sự đảm bảo tối đa cho nhà xuất khẩu.

- Tư vấn cho nhà xuất khẩu khi bộ chứng từ có bất hợp lệ

Trong thực tế nhiều nhà xuất khẩu Việt Nam do chưa hiểu rõ về thanh toán trong tín dụng chứng từ với những ưu thế của nó, về trách nhiệm của ngân hàng phát hành và trách nhiệm của người hưởng lợi khi xuất trình chứng từ, cho nên khi biết bộ chứng từ có sai sót thì thường xuyên yêu cầu ngân hàng chuyển chứng từ đi để thanh toán theo phương thức nhờ thu. Nếu làm như vậy sẽ gây bất lợi cho nhà xuất khẩu vì lúc đó bộ chứng từ sẽ được xử lý theo quy tắc thống nhất về nhờ thu, có nghĩa chứng từ mất quyền được bảo đảm với điều lệ UCP 600 mà theo đó ngân hàng phát hành phải thực hiện đúng nhiệm vụ là kiểm tra bộ chứng từ trong thời gian hợp lý nhưng không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận bộ chứng từ, nếu quá thời hạn trên ngân hàng phát hành sẽ bị mất quyền từ chối thanh toán.

Tuy quyền chọn gửi bộ chứng từ thanh toán theo phương thức nào là của người hưởng lợi, nhưng ngân hàng với bề dày trong kinh nghiệm thanh toán quốc tế cũng như có trình độ hiểu biết về thanh toán theo tín dụng chứng từ nên tư vấn cho khách hàng: Khi bộ chứng từ có bất hợp lệ, người hưởng nên yêu cầu chuyển


chứng từ trên cơ sở chấp nhận thanh toán và ghi rõ áp dụng theo UCP 600 chứ không nên gửi theo phương thức nhờ thu.

5.1.2.5 Lựa chọn các phương pháp giải quyết tranh chấp phù hợp

a. Lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp

- Thương lượng

Là phương pháp trong đó các bên giải quyết tranh chấp bằng cách liên lạc trực tiếp với nhau và trao đổi các quan điểm bên ngoài hệ thống xét xử chính thức. Thương lượng có thể dẫn tới kết quả là tranh chấp được giải quyết, hoặc các bên chuẩn bị đưa tranh chấp ra một bên thứ ba như hoà giải hoặc trọng tài.

- Kiện ra trọng tài

Phương pháp kiện ra trọng tài sử dụng một hoặc một số người độc lập, khách quan và có năng lực để làm trọng tài. Các bên được tự do chọn cơ quan trọng tài, các quy tắc và các trọng tài.

Phương pháp trọng tài có ba đặc điểm chính:

- Các bên được lựa chọn địa điểm và thời gian cho công tác trọng tài.

- Các bên được lựa chọn, theo quy định của pháp luật, xem có bị ràng buộc bởi các quy tắc thủ tục hay không. Nếu họ muốn bị ràng buộc, họ được chọn các quy tắc áp dụng.

- Các bên được lụa chọn một hoặc các trọng tài không liên quan đến địa điểm, thời gian và các quy tắc thủ tục của công tác trọng tài. Tuy nhiên trong trường hợp trọng tài quy chế (hay trọng tài thương trực), việc chọn trọng tài thông thuờng được hạn chế trong danh sách trọngt ài đã được tổ chức trọng tài thiết kế trước.

- Hoà giải

Là phương pháp trong đó người hoà giải cố gắng giúp các bên đạt tới giải quyết được tranh chấp, hoặc phát hành một lời khuyên hoặc một báo cáo chính thức sau quá trình hoà giải. Các quy tắc thủ tục hết sức mềm dẻo, hoặc thậm chí không tồn tại.

Hoà giải khác với trọng tài ở chỗ hoà giải viên không có quyền đưa ra quyết định.

Hoà giải đặt biệt hữu ích khi giải quyết tranh chấp giữa các bên có quan hệ thương mại lâu dài hoặc khi tranh chấp nhỏ.


- Kiện ra toà án

Là một trong những phương pháp truyền thống để giải quyết trnh chấp. Toà án sẽ là người xét xử tranh chấp và cưỡng chế thi hành phán quyết của mình theo thủ tục của toà. Toà án còn có thể thực hiện cả việc cưỡng chế thi hành phán quyết của nước ngoài.

Trong phương thức thanh toán bằng L/C, trong L/C thường không qui định các vấn đề về trọng tài hay luật áp dụng mà chỉ dẫn chiếu tới UCP. Do đó trước hết các bên sẽ căn cứ vào UCP và các nguồn luật khác có thể dùng để giải quyết tranh chấp, kết hợp với điều khoản trọng tài trong hợp đồng để chọn phương pháp giải quyết tranh chấp phù hợp.

Thông thường, để tiết kiệm thời gian và chi phí, các bên đầu tiên nên chọn các phưong pháp thương lượng và hoà giải, nếu không giải quyết được mới dùng phương pháp trọng tài và phương pháp kiện ra toà. Phương pháp thưong lưọng có ưu điểm là không làm ảnh hưởng đến quan hệ thương mại giữa hai bên, chi phí thấp. Trong khi đó phương pháp hoà giải lại đòi hỏi phải có sự tham gia của một bên thứ ba, làm phát sinh thêm chi phí hoà giải.

Theo Điều 239 Luật Thương Mại Việt Nam 1997, thì các bên trước hết phải dùng phương pháp thương lượng. Các bên cũng có thể thoả thuận chọn một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân làm trung gian hòa giải. Nếu thương lượng hoặc hoà giải mà không đạt kết quả thì tranh chấp thương mại được giải quyết tại trọng tài hay toà án.

Nếu dùng phương pháp trọng tài, có thể chọn Trung tâm Trọng tài Quốc Tế về thư tín dụng tịa New York (International Center for Letter of Credit Arbitration – ICLOCA), nhưng như thế sẽ làm tăng các chi phí phát sinh và bất lợi về mặt ngôn ngữ (vì phải dùng tiếng Anh) đối với bên Việt Nam. Bên Việt Nam nên thoả thuận chọn Trung Tâm Trọng Tài Quốc Tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam làm cơ quan trọng tài.

b. Dẫn chiếu UCP vào trong L/C

Có thể nói trên thế giới không có nguồn luật nào điều chỉnh về phương thức tín dụng chứng từ được chấp nhận rộng rãi như UCP. Hơn nữa, các ngân hàng, các thương nhân, các trung tâm trọng tài, các toà án đã quen với việc vận dụng UCP để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến phương thức tín dụng chứng


từ, và cũng đã có nhiều án lệ liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ. Do đó, áp dụng UCP là một lựa chọn cần thiết cho các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ. Hai bên mua bán cũng như các ngân hàng hoàn toàn không nên tham gia vào một giao dịch chứng từ mà không dẫn chiếu UCP vì sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp.

c. Giải thích, vận dụng đúng các điều khoản của L/C và các quy định của pháp luật áp dụng cho L/C, kết hợp với hợp đồng ngoại thương.

Khi giải quyết tranh chấp trong thanh toán quốc tế bằng L/C, các bên cần giải thích và vận dụng đúng các điều khoản của L/C trên tinh thần của UCP thì dễ thuyết phục bên đối tác hơn. Nếu giải thích, vận dụng sai lệch sẽ làm cho đối tác khó chấp nhận, thậm chí không muốn đàm phán, thương lượng để giải quyết tranh chấp. Các bên nên chọn những người có chuyên môn về pháp luật trong xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế, …để đọc và phân tích các điều khoản của L/C, cũng có thể nhờ luật sư hoặc chuyên gia giúp đỡ.

d. Kiên trì, thiện chí trong quá trình giải quyết tranh chấp, kết hợp với sự tác động của các cơ quan quản lý Nhà nước.

Kiên trì, mềm dẻo và thiện chí trong quá trình giải quyết tranh chấp là thái độ cần thiết đối với các bên vì cần nhận thức rằng thái độ tiêu cực thì sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết tranh chấp.

Kiên trì thể hiện ở chỗ nếu thấy mình có đủ căn cứ thì nên giữ vững quan điểm để đạt được mục tiêu tối thiểu của mình, thuyết phục cái sai của đối tác một cách có căn cứ. Không nên vội vã và nóng nảy (hay xảy ra trong các vụ kiện tụng giữa người Việt Nam với nhau nhưng khi tiến hành kiện tụng với nước ngoài cần đặt biệt tránh) vì dễ dẫn đến thất bại.

Thiện chí thể hiện ở việc tự đặt mình vào vị trí của đối phương, không nên đưa ra những yêu sách quá lớn, không hợp lý. Mỗi bên cũng nên giải quyết tranh chấp hướng tới một quan hệ lâu dài và giữ uy tín của mình. Thiện chí còn thể hiện ở chỗ bên vi phạm tự nguyện nộp phạt hoặc bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm trước khi vụ kiện được đưa ra xét xử ở toà án hay trọng tài.

Khi cần, có thể đề nghị các cơ quan hữu quan ra các văn bản thông báo, khuyến cáo (ví dụ như văn bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi cho ngân hàng nước ngoài, Bộ Thương mại gửi cho đối tác nước ngoài…). Bên vi phạm


khi thấy có tác động của các cơ quan Nhà nước Việt Nam sẽ có trách nhiện hơn và thực hiện các yêu sách của bên Việt Nam. Tuy nhiên, không nên lạm dụng mối quen biết với các cơ quan Nhà nước Việt Nam để gây quá nhiều khó khăn cho đối tác, vì làm như vậy dễ trái với đạo đức kinh doanh và tự làm mất uy tín của mình.

f. Nghiên cứu kỹ hồ sơ khiếu nại, hồ sơ kiện. cung cấp thêm bằng chứng, lập luận hợp lý, lôgic.

Khi nhận được hồ sơ khiếu nại, bên bị kiện cần nghiên cứu kỹ hồ sơ, xác định giá trị pháp lý của các căn cứ và các tài liệu làm bằng chứng. Nếu các chứng cứ không hợp lệ thì cần bác bỏ. Có nhiều trường hợp bên Việt Nam nôn nóng (ví dụ người mua nôn nóng muốn nhận hàng, hay người bán nôn nóng muốn được trả tiền dù phải nộp phạt một phần tiền) mà chấp nhận các yêu sách không hợp lý.

Bên bị kiện còn có thể cung cấp thêm các bằng chứng, chứng từ chứng minh mình không vi phạm, bổ sung vào hồ sơ kiện trước đây và gửi cho bên đi kiện và cơ quan xét xử. Việc trình bày các chứng cứ này có thể tự thực hiện, nếu không tự thực hiện được thì có thể nhờ luật sư giúp đỡ, nhờ luật sư bào chữa tại phiên họp, xét xử toà án hay trọng tài.

5.2.2 Giải pháp nhằm phát triển thanh toán quốc tế trong thời gian tới

5.2.2.1 Đào tạo đội ngũ cán bộ thanh toán quốc tế chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn cao

Bất kì một doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt động kinh doanh đều chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho mình và ngân hàng cũng không ngoại lệ. Đào tạo cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ, có trình độ chuyên môn cao sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao hiệu quả trong việc đàm phán với khách hàng và giành lấy hợp đồng.

Ngân hàng cũng cần thường xuyên mở các khóa đào tạo nghiệp vụ để bổ sung kiến thức cho nhân viên thanh toán, chú trọng đổi mới nhận thức của đội ngũ thanh toán về chính sách khách hàng, khuyến khích họ tăng cường tìm hiểu các khách hàng mà họ phục vụ, tìm hiểu các nhu cầu của khách hàng khi giao dịch với ngân hàng.


Bên cạnh đó, ngân hàng cũng nên có chính sách đãi ngộ thích đáng đối với những cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thành tốt công việc được giao, có nhiều sáng tạo, thu hút nhiều khách hàng mới về giao dịch, đồng thời có chế độ kỹ luật, chuyển công tác đối với những cán bộ ý thức kỷ luật kém, chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao, gây ra sai sót làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Những giải pháp đó sẽ góp phần động viên và phát huy khả năng làm việc của những cán bộ có năng lực.

5.2.2.2 Thành lập phòng quan hệ khách hàng trong đó có bộ phận về thanh toán quốc tế tại các chi nhánh

Cán bộ phòng quan hệ khách hàng có nhiệm vụ là cầu nối giữa NHVACT với khách hàng. Cán bộ làm thanh toán quốc tế luôn bận rộn giải quyết các nghiệp vụ phát sinh hàng ngày, họ không có nhiều thời gian để hướng dẫn và tìm hiểu tâm tư khách hàng, trong khi đó có rất nhiều đối tưọng khách hàng khác cần được hướng dẫn, giúp đỡ ở những mức độ khác nhau. Do đó, cần có cán bộ phòng quan hệ khách hàng làm việc đó. Từ việc gần gũi hiểu rõ tâm lý khách hàng và những nhu cầu chính đáng của họ, có chính sách khách hàng hợp lý với các đối tượng khách hàng khác nhau, tăng khả năng hài lòng của khách hàng về dịch vụ thanh toán của NHVACT.

Gợi ý cho khách hàng thương lượng với đối tác áp dụng một số phương thức thanh toán có lợi hơn cho khách hàng nếu đối tác chấp nhận như phương thức CAD chẳng hạn vì có nhiều trường hợp đại diện người mua có mặt tại Việt Nam.

5.2.2.3. Hoàn thiện và đổi mới công cụ thanh toán

Hiện nay, các ngân hàng đều chú trọng trang bị cho ngân hàng của mình những ứng dụng công nghệ thanh toán tiên tiến theo tiêu chuẩn thế giới. Do đó, trước hết VABCT cần tận dụng tối đa công suất của hệ thống máy móc hiện có, hoàn thiện các chương trình phần mềm phục vụ công tác thanh toán quốc tế có thể tạo ra các mẫu điện chuẩn phù hợp với mỗi phương thức thanh toán và theo thông lệ quốc tế, phải có tính kết nối lẫn nhau và kết nối với tất cả chi nhánh trên các nước, với trụ sở chính và các ngân hàng đại lý của VAB trên thế giới, để với cơ sở đó cho phép xây dựng, chuẩn hóa, phát triển hệ thống thông tin khách hàng

Xem tất cả 76 trang.

Ngày đăng: 12/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí