khích, huy động tập trung nguồn lực, khai thác tối ưu tiềm năng, thế mạnh của đất nước; bảo tồn và phát huy được những giá trị truyền thống; nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Các nhóm chính sách ưu tiên chủ yếu sau:
Chính sách dài h n
Nhóm chính sách khuyến khích du lịch: Tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch quốc tế đến Việt Nam; tăng cường năng lực, ứng dụng công nghệ cao, đơn giản hóa thủ tục xuất, nhập cảnh, miễn thị thực; khuyến khích đầu tư khu vực tư nhân vào các lĩnh vực, ngành nghề du lịch, đặc biệt là cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất du lịch; ưu đãi đầu tư đối với vùng sâu, vùng xa có tiềm năng du lịch nhưng khả năng tiếp cận hạn chế; khuyến khích phát triển sản phẩm mới, sản phẩm đặc thù, sản phẩm, dịch vụ mang tính chiến lược (casino); hình thành quỹ thời gian nghỉ ngơi khuyến khích du lịch; tăng cường kết hợp du lịch cộng đồng với các loại hình du lịch khác như du lịch MICE, du lịch giáo dục, du lịch công đoàn, thanh niên và du lịch bởi nhóm xã hội; chú trọng du lịch cao cấp, điều tiết hợp lý du lịch đại chúng;
Nhóm chính sách kiểm soát chất lượng du lịch: nâng cao nhận thức, kiến thức về quản lý chất lượng, áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn, hệ thống kiểm định, công nhận chất lượng; phát triển, tôn vinh thương hiệu, thúc đẩy nhượng quyền thương hiệu; hình thành và tôn vinh hệ thống danh hiệu, nhãn hiệu.
Chính sách cấp bách, cần thực hiện ngay
Chính sách đầu tư phát triển sản phẩm du lịch đặc trưng vùng có sức cạnh tranh khu vực và quốc tế: tăng cường nghiên cứu thị trường, xây dựng chiến lược sản phẩm; khuyến khích sản phẩm mới có tính chiến lược; huy động nguồn lực tại chỗ.
Chính sách bảo vệ môi trường tại các khu, tuyến điểm, cơ sở dịch vụ du lịch: áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường; kiểm tra xử lý vi phạm về môi trường du
lịch; kiểm định, đánh giá, tôn vinh những thương hiệu, nhãn hiệu du lịch “xanh”; xây dựng nếp sống văn minh du lịch;
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu, khai thác giá trị văn hóa của người Dao ở tỉnh Phú Thọ phục vụ phát triển du lịch cộng đồng - 10
- Giải Pháp Gắn Với Đào T O, Nghiên Cứu Khoa Học
- Giải Pháp Gắn Với Xúc Tiến, Kết N I Du Lịch
- Nghiên cứu, khai thác giá trị văn hóa của người Dao ở tỉnh Phú Thọ phục vụ phát triển du lịch cộng đồng - 14
- Nghiên cứu, khai thác giá trị văn hóa của người Dao ở tỉnh Phú Thọ phục vụ phát triển du lịch cộng đồng - 15
Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực du lịch: Khuyến khích đào tạo và chuyển giao kỹ năng tại chỗ; thu hút chuyên gia, nhân tài, nghệ nhân trong và ngoài nước phục vụ cho đào tạo du lịch; tăng cường chuẩn hóa kỹ năng, chương trình đào tạo; đẩy mạnh thẩm định, công nhận kỹ năng; tạo điều kiện di chuyển, chuyển đổi nghề nghiệp; hình thành mã ngành đào tạo du lịch ở các cấp đào tạo; sử dụng phí dịch vụ vào việc đào tạo và phát triển nhân lực.
Chính sách về xúc tiến quảng bá tại các thị trường trọng điểm: tăng cường nghiên cứu thị trường, phân đoạn các thị trường mục tiêu; hỗ trợ về tài chính đối với thị trường trọng điểm; liên kết, tập trung nguồn lực trong và ngoài nước cho xúc tiến quảng bá tại thị trường trọng điểm; quảng bá những thương hiệu mạnh theo phân đoạn thị trường trọng điểm; hình thành các kênh quảng bá toàn cầu đối với những thị trường trọng điểm (văn phòng đại điện du lịch, thông tin đại chúng toàn cầu); chiến dịch quảng bá tại các thị trường trọng điểm.
Chính sách phát triển du lịch cộng đồng:Khuyến khích, hỗ trợ phát triển các loại hình du lịch dựa vào cộng đồng, du lịch nông thôn, nông nghiệp, làng nghề truyền thống, du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng; tăng cường năng lực tham gia của động đồng; tuyên truyền nâng cao nhận thức, hướng dẫn kỹ thuật; hỗ trợ trang thiết bị cơ bản cho cộng đồng, phát triển mô hình nghỉ tại nhà dân (homestay); tăng cường trách nhiệm kinh tế, chia sẻ lợi ích với cộng đồng; hỗ trợ xúc tiến quảng bá du lịch cộng đồng; hỗ trợ chuyển đổi nghề sang làm du lịch ở các vùng nông thôn, ven đô.
Nhóm chính sách khuyến khích du lịch sẽ mở rộng quy mô cả cung và cầu du lịch. Về cung du lịch sẽ thúc đẩy đầu tư, sáng tạo, phát triển sản phẩm, mở rộng quy mô, đa dạng loại hình.. Về cầu du lịch sẽ tăng cường thu hút khách theo phân đoạn thị trường, tạo điều kiện thuận lợi xuất nhập cảnh, đi lại, thụ hưởng du lịch.
Ngoài ra cũng cần có những chính sách khuyến khích phát huy văn hóa truyền thống, các chương trình nhằm khơi dậy những tinh hoa văn hóa dân tộc Dao.
K ơ ậy ngh thủ công truy n thống:
Người Dao ở Phu Thọ có nhiều nghề thủ công truyền thống có giá trị văn hóa cao như nghề chạm khắc bạc, thêu dệt thổ cẩm làm trang phục, rèn đúc, làm đồ mộc... Tuy nhiên, các nghề này chỉ là nghề phụ mang tính chất hỗ trợ cho trồng trọt. Sản phẩm của các nghề thủ công này chưa trở thành sản xuất hàng hóa mà chỉ mang tính tự cung tự cấp, đáp ứng riêng cho nhu cầu của từng gia đình. Nhưng từ khi du lịch phát triển, người Dao ở Sapa đã lựa chọn một số nghề để đầu tư tổ chức sản xuất tạo ra sản phẩm cho du lịch. Điền hình là nghề thêu dệt thổ cẩm. cần học tập tổ chức các câu lạc bộ sản xuất thổ cẩm thu hút các hội viên là người Dao bản địa. Các câu lạc bộ này được các tổ chức phi chính phủ tư vấn về mẫu mã sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm bước đầu. Chính quyền địa phương cũng tạo điều kiện thuận lợi cho vay vốn, tổ chức lớp dạy nghề miễn phí cho người dân. Nhờ vậy mỗi người tham gia sản xuất các sản phẩm phục vụ du lịch đều có thu nhập cao.
Nguyên tắc sản xuất nghề thủ công cũng như thêu dệt sản phẩm du lịch phải đảm bảo các yếu tố như kế thừa di sản văn hóa truyền thống. Trong nghề thêu dệt thổ cẩm, phụ nữ người Dao đều giữ gìn một số hoa văn cổ độc đáo có dấu ấn riêng của văn hóa tộc người. Người Dao cũng giữ gìn bảng màu truyền thống gồm có 4 màu chủ đạo là vàng, đen, đỏ, trắng. Sản phẩm nghề thêu dệt thổ cẩm đa dạng, phù hợp với nhu cầu của du khách như đệm, gối, túi đeo điện thoại di động, ví, mũ, túi xách tay, ba lô du lịch...
Trong nghề chạm khắc bạc cũng vậy, người Dao sản xuất đa dạng các sản phẩm như nhẫn, vòng tay, sợi dây chuyền bạc, các hình kỷ niệm bằng bạc... Nhưng mô típ hoa văn chạm khắc trên bạc vẫn là các mô típ hoa văn cổ truyền. Đồng thời một số cơ sở chạm khắc bạc chỉ sản xuất sản phẩm bằng bạc nguyên chất nhằm giữ uy tín của bạc trắng chứ không sản xuất các loại sản phẩm bằng nhôm, hợp kim.
Các sản phẩm nghề thủ công phục vụ du lịch của người Dao đa dạng, phong phú nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc cụ thể:
Các sản phẩm thủ công đều kế thừa kỹ thuật, họa tiết, thẩm mỹ truyền thống. Đặc biệt, nhiều sản phẩm của nghề thêu dệt thổ cẩm, chạm khắc bạc đều nhằm chuyển tải bản sắc văn hóa người Dao thông qua các họa tiết, các biểu tượng giàu tính thẩm mỹ.
Các sản phẩm thủ công này đều đảm bảo nguyên tắc sản xuất thủ công, không sử dụng máy móc, không sử dụng đồ sản xuất công nghiệp làm nguyên vật liệu.
Các sản phẩm thủ công đều đa dạng hóa về mẫu mã, chủng loại đáp ứng với nhu cầu hiện tại của du khách.
Các sản phẩm thủ công đều gọn nhẹ, dễ chuyên chở và giá thành không quá đắt mục đích nhằm bán được nhiều sản phẩm.
Phát triển dịch vụ tắm lá thuốc:
Trước đây người Dao là dân tộc rất giỏi về y học cổ truyền, sử dụng dược liệu chữa bệnh nổi tiếng trong cộng đồng các dân tộc ở khu vực Tây Bắc. Phụ nữ người Dao đều có kho tàng tri thức về dược học, nhiều người trở thành những người thầy thuốc nổi tiếng. Trong cuộc sống thường ngày của người Dao cổ truyền, họ đã sử dụng lá thuốc để tắm nhằm đảm bảo sức khoẻ của các thành viên gia đình. Nhưng hiện nay, để đáp ứng nhu cầu du khách, người Dao đã phát huy việc lấy lá làm thuốc tắm trở thành hàng hóa phục vụ du lịch. Nếu có thể khôi phục và phát triển hình thức chữa bệnh này theo hệ thống gắn liền với du lịch cộng đồng sẽ là một giải pháp mang tính định hướng lâu dài. Tắm lá như một thương hiệu nổi tiếng của người Dao nếu biết cách khai thác đây chính là một lợi thế cho phát triển du lịch cộng đồng ở Phú Thọ.
Khai thác nhà ở thành nhà nghỉ cộ đồng:
Nhà người Dao truyền thống thường chật hẹp và ít có công trình vệ sinh. Nhưng do ở gần xen kẽ với người Kinh, người Mường nên nhà ở người Dao ở Phú
Thọ có phần sạch sẽ, trước nhu cầu du khách thích nghỉ tại bản làng nên nhiều hộ gia đình người Dao đã tu sửa ngôi nhà trở thành nhà nghỉ cộng đồng phục vụ du khách (homestay). Các ngôi nhà này đều giữ kiến trúc, khuôn viên, mặt bằng, kết cấu bên trong giống như ngôi nhà cổ truyền. Nhưng làm thêm 1, 2 gian ở phía trước cửa nhà làm nhà nghỉ cho du khách vì quan niệm các du khách không làm ảnh hưởng đến bàn thờ tổ tiên và sinh hoạt của các thành viên gia đình truyền thống. Các phòng nghỉ đều bố trí như nhà nghỉ bình dân, có đồ dùng mới, tủ, bàn ghế, ti vi và có công trình vệ sinh khép kín. Tuy nhiên, vật liệu xây dựng đều là những vật liệu truyền thống gỗ, tre, không sử dụng các vật liệu hiện đại như xi măng, gạch, ngói. Như vậy, người Dao vẫn giữ được kiến trúc và nếp sống truyền thống trong ngôi nhà đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho du khách sử dụng các dịch vụ của nhà nghỉ.
Bên cạnh các dịch vụ phục vụ du lịch trên, người Dao Phú Thọ cũng nên phát huy di sản văn hóa truyền thống tạo thành nhiều sản phẩm và các yếu tố của sản phẩm du lịch. Các thôn bản người Dao được chọn làm điểm du lịch đều xây dựng các đội văn nghệ dân gian, khai thác các di sản dân ca dân vũ truyền thống của người Dao thành các tiết mục, chương trình văn nghệ. Nhờ khai thác các chất liệu dân gian truyền thống nên các chương trình biểu diễn nghệ thuật phục vụ du khách đều giàu bản sắc và hấp dẫn. Ở các điểm du lịch của người Dao ở các khu vực như Lào Cai, Hà Giang đã phối hợp với các doanh nghiệp tổ chức quảng bá các ngày lễ, các ngày hội, các ngày sinh hoạt cộng đồng cho du khách. Các sinh hoạt này đã được các hãng lữ hành xây dựng thành các sản phẩm du lịch chào bán cho khách quốc tế. Đặc biệt du khách rất thích xem các cảnh hát giao duyên, các lễ cưới, lễ “pút tồng”... của người Dao.
KẾT LUẬN
Bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống của mỗi dân tộc, ở từng địa phương là những bước đi cần thiết và quan trọng để kế thừa, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam. Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội hiện nay, có rất nhiều luồng văn hóa mới du nhập vào các vùng dân tộc thiểu số nói riêng và của đất nước nói chung, có nguy cơ làm phai nhạt bản sắc văn hóa truyền thống. Bên cạnh đó, những người am hiểu về văn hóa các dân tộc ở các địa phương đang ngày càng mai một - dân tộc Dao ở Phú Thọ cũng nằm trong tình trạng đó. Vì vậy, đánh giá được tình trạng và đưa ra các giải pháp bảo tồn và phát huy một số giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Dao nhằm tăng cường hiểu biết cơ bản về văn hóa truyền thống và vận dụng chính sách dân tộc trong tình trạng hiện nay là một nhiệm vụ quan trọng được các cấp, các ngành của tỉnh Phú Thọ quan tâm, nghiên cứu.
Người Dao ở Phú Thọ đã sinh sống và định cư nhiều đời, chủ yếu sống tập trung tại Nga Hoàng – huyện Yên Lập, huyện Thanh Sơn, huyện Tân Sơn . Dân tộc này thường sống ở chân núi và có cuộc sống kinh tế gắn với đồi rừng, họ cư trú tập trung thành làng, bản dưới chân núi và lưng chừng núi, dưới chân các quả đồi thấp. Người Dao lấy trồng trọt cây lương thực làm ngành sản xuất chính, đồng thời phát triển các nghề chăn nuôi, làm nghề thủ công, săn bắt và trao đổi hàng hóa.
Qua nghiên cứu và đánh giá cho thấy, một số giá trị văn hóa truyền thống của người Dao đã thay đổi khá nhiều bởi các yếu tố văn hóa du nhập. Ngày nay, nhà của các dân tộc Dao đã có sự thay đổi so với truyền thống, đa phần là nhà xây, một số gia đình khá giả đã xây được nhà tầng, chỉ có một số nhỏ vẫn giữ được mẫu nhà truyền thống, nhưng đã cách tân khá nhiều cho phù hợp với cuộc sống hiện đại. Việc xây nhà, chọn đất và hướng nhà đã có nhiều thay đổi. Một số nghi lễ như lễ vào nhà mới, một số tập quán, tín ngưỡng liên quan đến cư trú trong nhà đã có sự thay đổi cho phù hợp với điều kiện hiện nay.
Người Dao Phú Thọ có tiếng nói và chữ viết riêng; tuy nhiên, chỉ được sử dụng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày tại gia đình và cộng đồng. Việc dạy, học tiếng nói và chữ viết riêng của dân tộc, chủ yếu dưới hình thức truyền miệng, chứ không tổ chức thành trường lớp.
Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều chương trình, chính sách, giải pháp hỗ trợ, nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc ít người như: Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa gia đình năm 2001-2010; Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”. Bên cạnh đó còn nhiều chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội được thực hiện đối với đồng bào dân tộc thiểu số như: Chương trình 135, Quyết định 134, Chương trình phát triển kinh tế-xã hội các xã, thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn,...
Bộ máy tổ chức làm công tác dân tộc và công tác văn hóa các cấp đã được kiện toàn và củng cố. Hàng năm, Ban Dân tộc đều có các chương trình phối hợp tuyên truyền về công tác dân tộc đối với đồng bào dân tộc thiểu số về việc phát triển và giữ gìn nét đẹp văn hóa đối với các dân tộc thiểu số. Qua nhiều năm thực hiện chính sách văn hóa đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu nhất định. Các chương trình mục tiêu quốc gia đã góp phần quan trọng làm nâng cao được văn hóa tinh thần, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc.
Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã trở thành nguồn tài nguyên nhân văn vô cùng quý giá để phát triển du lịch bền vững khi Nhà nước chủ trương phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trong những năm qua, di văn hóa các dân tộc thiểu số luôn luôn có vai trò tích cực trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa và giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Tiềm năng của các di sản văn hóa đã và đang phát huy mạnh mẽ, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Doanh thu du lịch thông qua các loại hình dịch vụ tại các điểm du lịch có Di sản văn hóa thế giới ngày càng tăng, góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm cho người dân. Hiện tại, hầu hết các địa phương đều xác định thế mạnh của các văn hóa để xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng
và nhiều nơi đã tạo thành những thương hiệu nổi tiếng. Phú Thọ có thương hiệu gắn với Lễ hội Đền Hùng, với di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại – Giỗ Tổ Hùng Vương, với di sản phi vật Thể Hát Xoan tạo nên một thế mạnh sẵn có thu hút khách du lịch, song bởi tính thời vụ của loại hình du lịch lễ hội nên việc khách đến Phú Thọ có tỉ lệ lưu trú qua đêm là còn rất ít, các điểm du lịch khác hầu như chưa có điểm nổi bật để thu hút khách du lịch ngoài mùa lễ hội. Các tua, tuyến du hầu như chưa có sự đa dạng nên việc xây dựng một điểm du lịch cộng đồng dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc là rất cần thiết cho sự phát triển của du lịch Phú Thọ.
Cho đến nay việc khai thác văn hóa dân tộc thiểu số nói chung và khai thác văn hóa dân tộc Dao nói riêng ở Phú Thọ còn rất hạn chế. So với các vùng khác như Lào Cai, Hà Giang thì ở Phú Thọ loại hình du lịch vẫn ở mức độ phát triển thấp, chủ yếu mang tính tự phát.
Các chính sách phát triển du lịch mang tính ưu tiên, có mối liên quan hữu cơ với nhau, cần được ban hành và thực hiện đồng bộ gắn với những điều kiện tiên quyết. Chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển du lịch là các bước thực hiện chính sách do vậy cần có đủ những điều kiện cần thiết để chính sách được thực thi hiệu quả. Sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, các địa phương quyết định đến sự thành công của các chính sách.