Đào Tạo, Bồi Dưỡng Nghiệp Vụ Và Phương Pháp Sư Phạm Về Đào Tạo Từ Xa Cho Đội Ngũ Cán Bộ Quản Lý Và Giáo Viên


sánh với tiêu chuẩn của một số nước trong khu vực và quốc tế, hầu hết các loại học liệu do các cơ sở đào tạo từ xa biên soạn chưa thực sự phù hợp với công nghệ đào tạo từ xa. Một số môn học còn dùng chung tài liệu với loại hình mặt - giáp - mặt (Hệ chính quy, tại chức, liên thông, chuyên tu...). Đối với các chương trình đào tạo, các cơ sở đào tạo từ xa tự biên soạn, chưa có sự thống nhất giữa các cơ sở đào tạo từ xa trong nước, làm cho sự liên thông (Học liệu, học viên) giữa các cơ sở đào tạo từ xa hầu như không thể thực hiện được. Đối với biên soạn giáo trình và thiết kế học liệu mỗi cơ sở đào tạo từ xa làm với một màu sắc khác nhau dẫn đến chất lượng tài liệu không cao và hiệu quả sử dụng của người học thấp, vì không có sự thống nhất giữa các cơ sở đào tạo từ xa với nhau, cho nên việc thiết kế học liệu, giáo trình tốn kém đáng kể. Các cơ sở đào tạo từ xa chưa tập hợp được đội ngũ giáo viên, giảng viên giỏi, các nhà khoa học, các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực để tổ chức xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu dùng chung cho một số môn học, đặc biệt là giáo trình, học liệu cho các môn học tự nhiên, kỹ thuật - công nghệ, xây dựng các lớp học “Ảo”, các bài thực hành, thí nghiệm “Ảo”, dẫn đến thời gian học trực tiếp còn nhiều. Thiết bị nghe, nhìn và công nghệ thông tin hiện đại để áp dụng vào đào tạo từ xa chưa được các cơ sở đào tạo từ xa chú trọng và khai thác. Các Đài phát thanh, truyền hình của trung ương, địa phương và của các tổ chức truyền thông khác, học viên đào tạo từ xa sử dụng làm phương tiện hỗ trợ học tập chưa đáng kể và chưa hiệu quả trong những thời gian qua. Việc đa dạng các công nghệ đào tạo từ xa ở nước ta đã được bàn luận nhiều, để phù hợp với đa dạng hoàn cảnh của nhiều người tham gia học theo phương thức đào tạo từ xa chưa được quan tâm đúng mức, cũng vì đầu tư cho một công nghệ đào tạo từ xa là một phần chi tiêu chủ yếu và tốn kém, trong khi nhà nước chưa hỗ trợ cho các cơ sở đào tạo từ xa về lĩnh vực này.

2.2.2. Đầu tư cơ sở vật chất

Các cơ sở đào tạo từ xa tại nước ta nói chung khai thác tốt khả năng thu hút nguồn vốn từ chủ trương “Xã hội hóa” trong giáo dục và đào tạo, trong những năm gần đây các cơ sở đào tạo từ xa, về cơ bản đã lấy thu bù chi, kết hợp một phần nhỏ nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để trang trải cho đào tạo


từ xa. Vì vậy cơ sở vật chất tại các cơ sở đào tạo từ xa thuộc các Trường Đại học, Học viện và các Viện chủ yếu dựa trên nền tảng đào tạo hệ chính quy, tại chức, liên thông để phát triển, chưa có đầu tư ban đầu thích đáng cho công nghệ đào tạo từ xa, từ trang thiết bị đến các giáo trình, học liệu, phục vụ cho học viên đào tạo từ xa, vì vậy, việc tham gia phương thức đào tạo từ xa của học viên, tự học là chủ yếu, có hướng dẫn giải đáp thắc mắc môn học, bị biến hóa đa dạng trở thành học trực tiếp với thời gian rút ngắn vào các buổi cuối tuần và ngoài giờ hành chính.

2.2.3. Tổ chức và quản lý quá trình đào tạo

Một số cơ sở đào tạo từ xa và một số cơ sở tiếp nhận đào tạo từ xa ở địa phương hiện nay chưa có tổ chức hợp lý và đủ mạnh, chưa có quy trình và biện pháp quản lý đào tạo từ xa chặt chẽ. Các cơ sở tiếp nhận chương trình đào tạo từ xa ở địa phương của một số cơ sở phần lớn là do cán bộ của các Sở Giáo dục & Đào tạo kiêm nhiệm, không có bộ máy chuyên trách, địa điểm thuê mượn không ổn định. Một số trường còn đặt trung tâm đào tạo từ xa vệ tinh ở các Trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện hoặc các đơn vị khác không theo đúng quy định tại Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm giáo dục thường xuyên ban hành theo Quyết định số 01/ 2007/QĐ-BGDĐT ngày 02 tháng 01 năm 2007 của Bộ Giáo dục & Đào tạo, cũng như quy định tại thông tư số 20/TT ngày 14 tháng 11 năm 1994 hướng dẫn việc mở và quản lý các lớp bậc Đại học, Trung học chuyên nghiệp không tập trung. Điều này dẫn đến tình trạng mở lớp phân tán, môi trường sư phạm không đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy - học, khả năng quản lý đào tạo và hỗ trợ đào tạo bị hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả đào tạo từ xa.

2.2.4. Quy trình thi, kiểm tra đánh giá

Công tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá thường được tiến hành theo phương pháp tự luận và tổ chức tại các trạm tiếp nhận chương trình đào tạo từ xa ở địa phương, các cơ sở đào tạo từ xa, thường xuyên cử cán bộ mang đề thi đến tận cơ sở, kết hợp cùng với giáo viên và cán bộ tại cơ sở đào tạo từ xa địa phương tổ chức cho học viên thi hết môn. Tuy nhiên, có nơi, có lúc chưa đảm bảo tính nghiêm túc, khách quan. Trong điều kiện thực tế hiện nay khi cơ sở vật chất còn thiếu, công nghệ đào tạo chưa được cải tiến, với phương thức xét tuyển đầu vào (không thi tuyển sinh) với

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.


quy chế thi, kiểm tra, thi tốt nghiệp như hiện nay chủ yếu kiểm tra theo hình thức tự luận chưa đáp ứng được quy trình kiểm tra, thi đánh giá theo phương pháp trắc nghiệm khách quan, vì phần lớn các kỳ thi được tổ chức tại các địa phương.

Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới cầu đào tạo từ xa ở Việt Nam - 11

2.2.5. Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và phương pháp sư phạm về đào tạo từ xa cho đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên

Hiện nay tại các cơ sở đào tạo từ xa tại các Trường Đại học, các Học viện và các Viện chủ yếu sử dụng đội ngũ giáo viên giảng dạy hệ chính quy, tại chức, chuyên tu, chưa có nghiệp vụ và phương pháp sư phạm đào tạo từ xa, tham gia biên soạn học liệu, hướng dẫn giải đáp thắc mắc môn học, hướng dẫn thực tập tốt nghiệp cho học viên từ xa, đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng biên soạn chương trình, thiết kế học liệu dành riêng cho đào tạo từ xa cũng như giảng dạy qua phương tiện kỹ thuật và hướng dẫn môn học cho học viên. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo từ xa tại các địa phương cũng như các cơ sở đào tạo từ xa tại các Trường Đại học, các Học viện và các Viện , hầu như chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ, chủ yếu là cán bộ quản lý giáo dục từ hệ chính quy và hệ vừa học vừa làm và các hệ khác, kiêm nhiệm công tác quản lý đào tạo từ xa, do vậy việc tư vấn, hướng dẫn, quản lý học viên đào tạo từ xa còn nhiều hạn chế, việc nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của học viên thiếu linh hoạt và kịp thời.

2.3. Nguyên nhân của hạn chế yếu kém

Các cơ sở đào tạo từ xa tại các Trường Đại học, Học viện và các Viện chưa chú trọng đầu tư xây dựng học liệu nghe - nhìn, học liệu điện tử, và thiết bị công nghệ thông tin để chuyển tải các chương trình đào tạo từ xa tới học viên, học liệu hiện nay của học viên đào tạo từ xa chủ yếu là các giáo trình, bài giảng của giáo viên được in sẵn, học liệu hỗ trợ cho học viên tự học, tự nghiên cứu, tự tham khảo trước khi giải đáp môn học còn nhiều hạn chế. Các cơ sở tiếp nhận chương trình đào tạo từ xa tại các địa phương chưa được trang bị thật đầy đủ học liệu, phương tiện hỗ trợ, đặc biệt là thí nghiệm thực hành cho học viên đào tạo từ xa trước khi có giảng viên hướng dẫn môn học, làm cho việc học tập của học viên bị động, thiếu tính chủ động. Vì vậy việc hướng dẫn giải đáp thắc mắc môn học cho học viên đào


tạo từ xa tính hiệu quả thấp, do học viên chưa thực sự chuẩn bị bài tại nhà thật đầy đủ và chu đáo, chủ động, nên việc hướng dẫn giải đáp thắc mắc môn học đôi khi trở thành buổi học hệ thống hóa kiến thức cho học viên.

Công tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên về chuyên môn, nghiệp vụ và phương pháp sư phạm đào tạo từ xa, đặc biệt là phương pháp dạy - học có khoảng cách và thông qua phương tiện kỹ thuật công nghệ thông tin và truyền thông chưa được quan tâm đúng mức, chưa tập huấn bài bản trước khi lên lớp, hầu hết còn mang tính kiêm nhiệm, vì vậy chưa phát huy tính chủ động học tập của học viên từ xa.

Đối với các giáo trình, học liệu có điều kiện chuẩn bị trước, in ấn chế bản phân phối cho học viên có nội dung tương đồng, chưa có sự phối hợp, liên kết giữa các cơ sở đào tạo từ xa (đặc biệt chia sẻ nguồn học liệu, phát triển công nghệ đào tạo). Làm cho công tác nghiên cứu, ứng dụng đào tạo từ xa ở nước ta còn đơn lẻ chưa có sự thống nhất về chương trình cũng như quy trình đào tạo, tính liên thông đào tạo từ xa giữa các cơ sở đào tạo từ xa hầu như chưa có, do vậy tính kế thừa sử dụng kết quả học tập của học viên không thể thực hiện được.

Phần đông học viên đào tạo từ xa không có khả năng trang bị điều kiện để tự học ở nhà, chưa có thói quen, chưa rèn luyện phương pháp tự học, vì trình độ đầu vào thấp, trong khi đó phải vừa làm việc tại các cơ quan, công sở vừa đi học, dễ bị chi phối bởi công tác và điều kiện riêng của mỗi cá nhân. Do vậy việc tư vấn, nhắc nhở học viên hoàn thành các học phần của mình là cần thiết, tránh tình trạng bỏ học nhiều như hiện nay của học viên đào tạo từ xa, dẫn đến sự lãng phí trong đào tạo.

Công tác quản lý từ Trung ương đến cơ sở còn nhiều bất cấp. Thiếu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chặt chẽ để quản lý điều hành các hoạt động đào tạo từ xa. Thiếu chế tài để xử lý các trường hợp vi phạm quy chế, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống đào tạo từ xa của nước ta hoạt động hiệu quả, mang tính thống nhất cao trong đào tạo.

Đào tạo từ xa tại nước ta thực sự chưa có chính sách đầu tư thích đáng từ các nguồn khác nhau, như Ngân sách Nhà nước tại Trung ương và Địa phương, các nguồn tài trợ khác, làm cho đào tạo từ xa tại nước ta về mặt đầu tư cho cơ sở hạ


tầng nhất là công nghệ đào tạo từ xa tương đối hạn chế, do vậy số lượng học viên theo học phương thức đào tạo từ xa còn hạn chế so với tiềm năng một đất nước hơn tám mươi triện dân hiện nay.

2.4 Những điều kiện thuận lợi đào tạo từ xa ở Việt Nam

Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2012 quy mô học viên đang theo học đào tạo từ xa trong cả nước là 161.047 học viên với 90 ngành nghề được đào tạo, số lượng học viên đào tạo từ xa đã tốt nghiệp ra trường tính đến năm 2009 là 159.947 học viên[Phụ lục 1]. Sự gia tăng mang tính hiện tượng về cầu đào tạo từ xa tại Việt Nam trong những năm qua, được quy cho các nguyên nhân sau:

Thứ nhất, Chính sách của Chính phủ khi bước vào thời kỳ đổi mới, thực hiện chủ trương đa dạng hóa các loại hình đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy chế đào tạo Đại học theo hình thức “Tự học có hướng dẫn.” Quy chế này là cơ sở pháp lý, các cơ sở đào tạo từ xa tại các Trường Đại học, Học viên và các Viện, các địa phương triển khai các hoạt động đào tạo từ xa nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả đào tạo. Đào tạo từ xa đã được Chính phủ coi là những phương pháp xã hội hóa học tập, là lộ trình để nâng cao vị thế kinh tế xã hội, cải thiện việc làm cho người dân Việt Nam, nhằm phát triển cầu đào tạo nói chung và cầu đào từ xa nói riêng. Bởi vì, cầu đào tạo từ xa là một bộ phận quan trọng của cầu đào tạo nói chung trong thời đại công nghệ giáo dục và phương tiện đào tạo từ xa ngày càng phát triển mạnh mẽ ở nước ta và các nước trên thế giới.

Thứ hai, Những sự thay đổi xã hội lớn diễn ra trong những năm “Đổi mới ”cũng khuyến khích mở rộng Giáo dục phổ thông và đào tạo Đại học. Vào những năm 90 của thế kỷ XX, nghề nghiệp truyền thống như: Nông nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp, và các ngành nghề có liên quan đến nông, lâm nghiệp đã mất vị thế trong lòng người dân Việt Nam. Phần lớn những người ở độ tuổi lao động đã chuyển sang nghề nghiệp mới đòi hỏi có kỹ năng và được đào tạo. Sự ra đời và du nhập các công nghệ mới từ nước ngoài được đưa vào hoạt động, sản xuất tại Việt Nam, ở các ngành, nghề đã tạo nhiều vị trí nghề nghiệp mới, làm gia tăng người dân Việt Nam lựa chọn giáo dục và đào tạo, với nỗ lực tìm kiếm các vị trí nghề nghiệp mới, làm


cho nhu cầu đào tạo theo cơ cấu ngành nghề ngày càng đa dạng chiếm một phần quan trọng trong nhu cầu đào tạo nói chung ở Việt Nam.

Thứ ba, Chính sách Bình đẳng giới của chính phủ đã đi vào cuộc sống, sự giải phóng từng bước cho người Phụ nữ Việt Nam tham gia vào các lĩnh vực Kinh tế-Xã hội, cũng đóng góp một phần quan trọng với sự gia tăng cầu đào tạo nói chung, và cầu đào tạo từ xa nói riêng trong những năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI.

Thứ tư, Sự gia tăng cầu giáo dục nói chung và cầu giáo dục từ xa nói riêng tại Việt Nam hiện nay, phải kể đến sự thành công của Chính phủ về các Chiến lược Dân số, bao gồm: (i) Chiến lược Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, giai đoạn 1993 – 2000, (ii) Chiến lươc Dân số Việt Nam, giai đoạn 2001 – 2010, (iii) Chiến lược Dân số, sức khỏe sinh sản Việt Nam, giai đoạn 2011 – 2020, được thực hiện triệt để sau 63 năm thành lập Nước, lần đầu tiên được tính từ năm 1993 cho đến nay.

Theo Niên giám Thống kê được Tổng cục Thống kê xuất bản năm 2011 cho biết, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc so với tổng dân số năm 2011 là 57,3%. Điều đó nói lên cơ cấu dân số Việt Nam đang ở thời kỳ “Dân số vàng”, có nghĩa là, nước ta đang trong thời kỳ cơ cấu dân số thể hiện số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ trọng cao hơn số người phụ thuộc. Như vậy, lực lượng lao động hùng hậu này cần được đào tạo để tạo ra một khối lượng sản phẩm, của cải vật chất lớn, tạo ra tích lũy cho tương lai, bằng cách phát triển đào tạo từ xa, tạo điều kiện cho những người lao động chưa có điều kiện đào tạo nghề nghiệp hoặc đào tạo lại. Cầu đào tạo từ xa nói riêng và cầu đào tạo nói chung phát triển là tăng khả năng cung ứng người lao động có chất lượng cao cho thị trường lao động, thu hẹp khoảng cách giữa cầu lao động của người tuyển dụng với cầu đào tạo nói chung.

Thứ năm, Từ năm 1986 trở lại đây, Việt Nam đi vào tiến trình “Đổi mới và hội nhập”, xây dựng đất nước, An ninh Chính trị tương đối ổn định, chiến tranh được đẩy lùi, số lượng thanh niên nhập ngũ giảm đáng kể, thời gian phục vụ quân ngũ của quân nhân hiện nay là hai năm và dưới hai năm so với thời gian trước đây là ba đến bốn năm, cũng là một nguyên nhân tác động lên cầu đào tạo.


Thứ sáu, Các thể chế, văn hóa, kinh tế cũng được coi như tác động đến sự gia tăng cầu đào tạo từ xa tại Việt Nam. Các nhân tố kinh tế là một ảnh hưởng đáng kể lên cầu đào tạo từ xa thông qua sự khác biệt về thu nhập tiền lương của những người đã tốt nghiệp đại học với những người chưa qua đào tạo, tham gia vào thị trường lao động. Giới trẻ và người trưởng thành Việt Nam nhìn nhận đào tạo đại học như một phương tiện đảm bảo một công việc với mức lương hậu hĩnh. Cùng thời điểm đó tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam tương đối thấp, tăng trưởng GDP hàng năm tương đối cao, trung bình vào khoảng 6 đến 9% /năm trong những năm (1995- 2005), điều đó đã khích lệ cho người học, coi tấm bằng đại học như sự đầu tư cho công cuộc kiếm sống trong tương lai. Các nét văn hóa của người Việt là sự coi trọng những con người được đào tạo, có kỹ năng làm việc, tinh thông nghề nghiệp, hiểu biết sâu rộng trong cuộc sống hơn là những người lao động phổ thông chưa qua đào tạo, không có kỹ năng trong lao động. Quan niệm này đã duy trì ảnh hưởng lên xã hội người Việt Nam đã từ khá lâu. Vì vậy, đối với những người đã có việc làm, những người ở độ tuổi trưởng thành chưa có cơ hội học tập sẽ hướng tới đào tạo từ xa, là nơi tạo cho họ có cơ hội được đào tạo kỹ năng nghề nghiệp trong cuộc sống. Hơn nữa lực lượng thể chế giáo dục đã gìn giữ phát huy những nét văn hóa ủng hộ việc theo đuổi giáo dục đại học tại Việt Nam. Kết quả là các chương trình học phổ thông nhằm chuẩn bị cho người học kiến thức học tại bậc giáo dục đại học và tập trung phần lớn vào sự truyền thụ những kiến thức cơ bản. Vì vậy cầu gia tăng về đào tạo đại học nói chung và đào tạo từ xa nói riêng tại Việt Nam sau thời kỳ đổi mới có thể quy cho là sự có mặt và ảnh hưởng của một lực lượng đa dạng các nhân tố vốn duy trì và phát huy những thái độ tích cực hướng đến con đường học tập sau học phổ thông hay sau khi đã có việc làm của người lao động. Sự gia tăng cầu đào tạo nói chung và đào tạo từ xa nói riêng, đã dẫn đến tất yếu từ năm 1993 đến 2010 tại Việt Nam có 17 cơ sở đào tạo từ xa tại các Trường Đại học, Học viện và Viện được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu của xã hội, đây cũng được cho là cần thiết trong nỗ lực điều hòa cầu đào tạo từ xa đang tăng nhanh.

Hiện nay Chính phủ nhìn nhận sự gia tăng mang tính hiện tượng về cầu đào tạo đại học với sự quan ngại lớn hơn khi họ lo sợ rằng nền kinh tế của Việt Nam


hiện nay không thể đủ khả năng đáp ứng sự gia tăng của cung đào tạo đại học về mặt cơ sở cật chất đào tạo cũng như đội ngũ giáo viên giảng dạy. Tại Hội nghị tổng kết năm học 2008-2009 của khối các Trường Đại học, Cao đẳng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã dẫn hai con số ấn tượng: Sau hai thập niên số sinh viên nước ta tăng lên 13 lần, còn số giáo viên tăng khoảng 3 lần. Theo thống kê năm học 2008-2009 tổng số sinh viên đại học cao đẳng là 1.719. 499, tổng số giáo viên là

61.190. Trong 3 năm số Trường Đại học, Cao đẳng mới thành lập tương đối nhiều, từ 230 trong năm học (2004-2005) lên 376 trong năm học (2008-2009) bao gồm cả các trường công lập và dân lập. Theo Giáo sư, Tiến sỹ Lâm Quang Thiệp tại Hội thảo Khoa học Quốc gia về đào tạo Mở và Từ xa năm 2009, được tổ chức tại Hà Nội, cho rằng: “Với tình hình nước ta hiện nay tăng nhanh số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên là không thể; Trong khi đó, sự phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu học tập của nhân dân trong thời đại mới đòi hỏi phải tăng tương đối nhanh số lượng sinh viên đại học”. Giáo sư, Tiến sỹ Lâm Quang Thiệp còn chỉ ra rằng: “Lời giải của bài toán khó này chẳng những có thể tìm thấy ở kinh nghiệm quốc tế mà còn có ngay trong Nghị quyết 14 của Đảng và Nhà nước”; Nghị quyết 14 chỉ rõ: “Chú ý hệ thống Cao đẳng Cộng đồng và các Đại học Mở, để mở rộng quy mô. Đối với Cao đẳng Cộng đồng có lưu ý đến các chương trình chuyển tiếp và chương trình nghề; Đối với hai Đại học Mở có lưu ý việc sử dụng hệ thống đánh giá chuẩn cho những người tự học và học theo phương thức khác muốn lấy văn bằng”. Vậy thực tế để giải bài toán với quy mô đào tạo lớn với nguồn lực có hạn, chỉ có thể khắc phục bằng phương thức đào tạo từ xa, với công nghệ đào tạo cho số đông, bằng việc áp dụng các thành tựu tiên tiến hỗ trợ đào tạo thể hiện tính kinh tế cao trong đào tạo.

Với khát vọng lớn lao vào đại học, đa phần học sinh phổ thông thi trượt vào các Trường Đại học công lập, họ lựa chọn cho mình những trường dân lập ít khắc nghiệt đầu vào hơn ở Việt nam, hoặc các trường đại học ở các nước khác với mức tài chính chấp nhận được. Đa số sinh viên theo học các trường dân lập hoặc các trường ở nước ngoài đều nhờ cậy vào nguồn tài chính của gia đình. Số lượng lớn học sinh còn lại, với hoàn cảnh điều kiện khác nhau không học tiếp đại học sẽ tham

Xem tất cả 182 trang.

Ngày đăng: 04/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí