5
luận án cần tiếp tục nghiên cứu. Phương pháp này cũng được sử dụng trong chương 2 để phân tích khung lý luận chung về giai cấp nông dân và CMCN 4.0.
- Phương pháp thống kê và so sánh, diễn dịch và quy nạp, nghiên cứu thực tế nhằm làm rõ thực trạng phát huy vai trò của nông dân vùng ĐBSH trong bối cảnh CMCN 4.0 từ đó rút ra những thành tựu, hạn chế cơ bản và nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế.
- Phương pháp thu thập thông tin:
+ Phương pháp phân tích văn bản: phân tích các tài liệu có sẵn liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài và các tài liệu, thông tin thu được từ khảo sát.
+ Nghiên cứu thực tế: tác giả luận án đã đi nghiên cứu một số mô hình nông nghiệp công nghệ cao ở một số tỉnh, thành phố thuộc vùng ĐBSH (Hà Nội, Quảng Ninh, Hà Nam).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ những đặc trưng cơ bản của cuộc CMCN 4.0 và tác động toàn diện của nó đối với nông dân (tác động đến sản xuất nông nghiệp của nông dân; tác động đến nông thôn - môi trường sản xuất và môi trường sống của nông dân; tác động đến đời sống chính trị, văn hóa, xã hội của nông dân); làm rõ vai trò của nông dân trong bối cảnh CMCN 4.0.
- Đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của nông dân vùng ĐBSH trong bối cảnh CMCN 4.0 và những vấn đề đặt ra.
Có thể bạn quan tâm!
- Nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư - 1
- Các Công Trình Khoa Học Nghiên Cứu Liên Quan Đến Tác Động Của Cách Mạng Công Nghiệp Lần Thứ Tư Đối Với Nông Nghiệp, Nông Dân, Nông Thôn
- Khái Quát Kết Quả Chủ Yếu Của Các Công Trình Đã Tổng Quan Và Những Nội Dung Luận Án Cần Tập Trung Nghiên Cứu
- Những Vấn Đề Luận Án Cần Tập Trung Nghiên Cứu
Xem toàn bộ 214 trang tài liệu này.
- Góp phần đề xuất những quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của nông dân vùng ĐBSH trong bối cảnh CMCN 4.0.
6. Ý nghĩa của luận án
Với những đóng góp mới về lý luận và thực tiễn, luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, cơ quan hoạch định chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở nghiên cứu, đào tạo liên quan đến vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong bối cảnh CMCN 4.0.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu thành 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Các công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về giai cấp nông dân và cách mạng công nghiệp lần thứ tư
1.1.1.1. Các công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến giai cấp nông dân Việt Nam
Nông dân vùng ĐBSH là một bộ phận của giai cấp nông dân Việt Nam. Vì vậy, để hiểu rõ về vai trò của nông dân vùng ĐBSH trong bối cảnh CMCN 4.0 trước hết cần phải tìm hiểu các công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam nói chung.
Tác giả Nguyễn Quốc Cường (2016) trong bài viết “Xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam vững mạnh trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [37] đã khẳng định: nông dân là lực lượng trọng yếu về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa. Sau 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách lớn nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nông dân. Thực tiễn đã chứng minh nông dân, nông nghiệp, nông thôn đã trở thành “trụ đỡ” của nền kinh tế của Việt Nam trong mọi điều kiện, kể cả những thời điểm khó khăn nhất. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với yêu cầu xây dựng “mẫu hình người nông dân mới”, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Xuất phát từ thực trạng đó, tác giả đề xuất 8 nhóm giải pháp nhằm nâng cao vai trò của giai cấp này trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc: tiếp tục cụ thể hóa chương trình, nội dung xây dựng giai cấp nông dân gắn liền với phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; tích cực đầu tư cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn; trong cơ cấu lại nông nghiệp, chú trọng rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể ngành, sản xuất theo thế mạnh của mỗi địa phương; tập trung giải quyết khó khăn, tạo sức bật cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn; tăng cường liên kết, mở rộng quy mô, phát triển kinh tế hợp tác theo chuỗi giá trị nông sản; tạo điều kiện cho nông dân tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; nâng cao chất lượng giáo dục, dạy nghề cho nông dân; xây dựng
7
mẫu hình người nông dân mới với các tiêu chí “nhận thức mới, kiến thức mới, ý thức mới, văn hóa mới, quyết tâm mới”.
Tác giả Nguyễn Thiện Nhân (2017) trong bài viết “Bảo đảm vai trò chủ thể của giai cấp nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới”
[114] đã đề cập đến những bất cập và mâu thuẫn của nông nghiệp, nông dân Việt Nam hiện nay, bao gồm: một là, sản xuất trong cơ chế thị trường song lại không biết nhu cầu thị trường; hai là, hộ nông dân cần vay vốn nhưng lại không đủ điều kiện để vay; ba là, năng suất tăng liên tục song thu nhập của nông dân lại tăng rất chậm; bốn là, nông dân cần liên kết với doanh nghiệp song mỗi doanh nghiệp không thể liên kết trực tiếp với hàng vạn hộ nông dân riêng lẻ; năm là, thị trường đòi hỏi nông sản phải có chứng nhận chất lượng và xuất xứ hàng hóa, song các cơ quan quản lý chất lượng nông sản không thể giám sát trực tiếp hàng triệu hộ nông dân riêng lẻ; sáu là, nông dân cần ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ song các tổ chức nghiên cứu khoa học không thể hướng dẫn trực tiếp cho hàng triệu hộ nông dân. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phát triển nông nghiệp bền vững đó là thành lập các hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới. Nông dân liên kết qua hợp tác xã là mô hình cơ bản nhất để giữ được đất, bảo đảm quyền lợi, quyền làm chủ của nông dân, từ đó, làm cơ sở để liên kết sản xuất ở mức độ cao hơn, có lợi cho nông dân hơn. Qua liên kết thành lập liên hiệp hợp tác xã, vị thế của nông dân trong đàm phán mua bán trên thị trường đầu vào và đầu ra được thay đổi căn bản, là tiền đề để phân phối lại giá trị gia tăng của chuỗi sản xuất nông nghiệp.
Tác giả Nguyễn Linh Khiếu (2017) trong bài viết “Vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng nông thôn mới” [90] đã khẳng định: ở Việt Nam hiện nay, nông dân là chủ thể của quá trình xây dựng nông thôn mới, biểu hiện: i) Nông dân là chủ thể nhận thức thấm nhuần chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới; ii) Nông dân là chủ thể thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế nông thôn; iii) Nông dân tích cực tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; iv) Nông dân là chủ thể của mọi hoạt động văn hóa, xã hội, trật tự, an ninh diễn ra ở nông thôn; v) Nông dân có vai trò quan trọng góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở.
Tác giả Trần Thanh Giang (2017) trong bài viết “Phát huy vai trò của giai cấp nông dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [54] bên cạnh khẳng định những kết quả đạt được, tác giả cũng chỉ ra những hạn chế, bất cập trong phát huy vai trò của giai cấp nông dân: vai trò kinh tế của giai cấp nông dân có biểu hiện giảm sút; phần lớn nông dân chưa được đào tạo nghề, tỷ lệ thiếu việc làm còn lớn; sự phân hóa
8
giàu nghèo có xu hướng tăng lên trong xã hội nông thôn. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của giai cấp nông dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) ở Việt Nam, bao gồm: một là, tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” với quan điểm khẳng định vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và nêu bật trách nhiệm của Nhà nước với nông dân; hai là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các chính sách bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nông dân; ba là, tăng cường các giải pháp hỗ trợ nông dân đẩy mạnh sản xuất trong quá trình thúc đẩy CNH, HĐH; bốn là, đẩy mạnh dân chủ hóa nhằm tăng cường tính chủ động, sáng tạo của giai cấp nông dân trong giai đoạn hiện nay.
Tác giả Thào Xuân Sùng (2018) trong bài viết “Xây dựng mẫu hình người nông dân thế hệ mới trong quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới” [139] đã khẳng định giai cấp nông dân Việt Nam có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Vì thế, xây dựng mẫu hình người nông dân thế hệ mới là nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi sự nỗ lực của mọi cấp, mọi ngành, trong đó có vai trò chủ đạo của Hội Nông dân Việt Nam. Tác giả cũng đã chỉ rõ các nội dung cơ bản về xây dựng mẫu hình người nông dân thế hệ mới, bao gồm: giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; biết giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, hợp tác và giúp đỡ nhau; có trình độ học vấn và kiến thức khoa học - kỹ thuật tiên tiến; biết kết hợp bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa lao động cần cù và sáng tạo, trọng nghĩa tình, kiên nhẫn và kiên cường.
Tác giả Bùi Thị Vân Anh (2018) trong cuốn sách “Một số yếu tố tâm lý của người nông dân ảnh hưởng tới việc chuyển đổi phương thức sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại” [1] đã chỉ ra một số yếu tố tâm lý của người nông dân ảnh hưởng đến việc chuyển đổi phương thức sản xuất nông nghiệp. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số biện pháp cơ bản nhằm giảm thiểu những yếu tố tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực và phát huy những yếu tố tâm lý có ảnh hưởng tích cực đến phương thức sản xuất nông nghiệp hiện đại: nâng cao nhận thức của người dân, đặc biệt là ý thức trách nhiệm của người sản xuất nông nghiệp về sản phẩm an toàn; phát huy ý thức trách nhiệm của chính quyền với người dân liên quan đến việc cung cấp thông tin về giá cả thị trường cần sát thực, thường xuyên hơn; các biện pháp giảm thiểu tâm lý sản xuất manh mún của người dân hướng tới sản xuất quy mô lớn theo hướng hoạt động; tăng cường tính chủ động, giảm thiểu tính ỷ lại của người dân.
9
Các tác giả Đặng Kim Khôi và Trần Công Thắng (chủ biên) (2019) trong cuốn sách “Bức tranh sinh kế người nông dân Việt Nam trong thời kỳ hội nhập (1990-2018)”
[91] đã nghiên cứu phân tích bức tranh sinh kế hộ nông dân Việt Nam trên phạm vi cả nước, so sánh giữa các vùng sinh thái nông nghiệp chính, so sánh thành thị và nông thôn, trong một số trường hợp có so sánh giữa Việt Nam và quốc tế. Nghiên cứu tập trung phân tích trong giai đoạn 30 năm đổi mới (1986-2018) nhưng tập trung phân tích sâu hơn ở giai đoạn 1995-2018. Đây là giai đoạn Việt Nam bắt đầu quá trình sâu rộng về hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa, tác động sâu sắc đến sinh kế hộ nông dân. Đây cũng là giai đoạn các số liệu thứ cấp liên quan đến sinh kế hộ nông dân phong phú hơn. Cuốn sách dựa trên khung phân tích sinh kế được sử dụng rộng rãi nhất là của Bộ Phát triển Quốc tế Anh (DFID 2003) để đánh giá các khía cạnh về đời sống của người nông dân Việt Nam. Các tác giả đã giải thích khái niệm “hộ nông dân Việt Nam”, mô tả các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của các hộ nông dân ở Việt Nam (hộ kinh doanh, trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp). Trên cơ sở đó, nhóm tác giả tập trung phân tích hiện trạng sinh kế của hộ nông dân Việt Nam trên các khía cạnh chính: i) Thu nhập, chi tiêu, tích lũy; ii) Đất đai và tài sản; iii) Y tế, dinh dưỡng, thể trạng, học vấn; iv) Lao động và việc làm; v) Tương tác với chính sách và chính quyền; vi) Rủi ro và cơ chế ứng phó. Cuối cùng, các tác giả đã đi sâu đánh giá cơ hội và thách thức trong chiến lược phát triển sinh kế bền vững của từng nhóm hộ nông dân chính tại Việt Nam; trên cơ sở đó đưa ra các định hướng chính sách để phát triển sinh kế hộ nông dân bền vững nhằm bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống mọi mặt cho người nông dân.
1.1.1.2. Các công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Các công trình khoa học nước ngoài
Tác giả Klaus Schwab (2018) trong cuốn sách “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” [183] đã cung cấp những kiến thức cơ bản về CMCN 4.0 bao gồm: bối cảnh ra đời, sự thay đổi sâu sắc, mang tính hệ thống của cuộc cách mạng này. Bên cạnh đó, tác giả đã đề cấp đến các xu hướng công nghệ của CMCN 4.0 thuộc ba nhóm chính là vật chất (xe tự hành, in 3D, robot, vật liệu mới); kỹ thuật số (internet vạn vật - IoT) và sinh học (công nghệ gen). Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra những tác động của cuộc CMCN 4.0 đối với ngành kinh tế, doanh nghiệp, xã hội, cá nhân, đối với quốc gia và toàn cầu. Tác giả cũng khẳng định ba mục tiêu chính của cuốn sách là: i) nâng cao nhận thức về tính toàn diện và tốc độ của cuộc CMCN 4.0 và tác động đa chiều của nó; ii) xác lập một khuôn khổ tư
10
duy về cuộc CMCN 4.0 để xác định những vấn đề cốt lõi và nêu bật những giải pháp khả thi; iii) thiết lập một nền tảng có thể thúc đẩy hợp tác và quan hệ đối tác công - tư trong các vấn đề liên quan đến CMCN 4.0.
Cũng tác giả Klaus Schwab (2019) trong phần 1 cuốn sách “Định hình cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” [184] đã phân tích những động lực và thách thức của cuộc CMCN 4.0 và thảo luận về sự cần thiết của cách tiếp cận dựa trên giá trị lấy con người làm trung tâm. Trong phần 2, tác giả đã cung cấp những hiểu biết sâu sắc về 12 nhóm công nghệ sẽ thúc đẩy và định hình cho cuộc CMCN 4.0. Quy mô, phạm vi và tốc độ thay đổi mà các công nghệ này mang lại sẽ tác động không chỉ tới các ngành công nghiệp, mà chúng còn có khả năng thay đổi tiến trình của lịch sử và sẽ ảnh hưởng tới mọi khía cạnh của đời sống con người.
Các tác giả Min Xu, Jeanne M. David & Suk Hi Kim (2018) trong bài viết “The Fourth Industrial Revolution: Opportunities and Challenges” (Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức) [194] đã khái quát đặc trưng cơ bản của cuộc CMCN 4.0 là sự hợp nhất của các công nghệ đang làm mờ ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Cuộc cách mạng này đang phát triển theo cấp số nhân chứ không phải tốc độ tuyến tính. Những cơ hội mà cuộc cách mạng này đem lại là: giảm bớt khoảng cách giữa những phát minh công nghệ với thị trường; xu hướng gia tăng trí tuệ nhân tạo; các công nghệ tiên tiến sẽ tích hợp các ngành khoa học và kỹ thuật khác nhau; cải thiện chất lượng cuộc sống nhờ rôbốt; Internet vạn vật (IoT) là mạng liên kết các thiết bị vật lý. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng chỉ ra những thách thức mà cuộc CMCN 4.0 mang lại: phá vỡ thị trường lao động, mang lại sự bất bình đẳng về thu nhập giữa lao động trình độ cao với lao động công nghệ thấp; mối đe dọa đối với an ninh mạng.
Các công trình khoa học trong nước
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2016) trong “Báo cáo tổng hợp cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Một số đặc trưng, tác động và hàm ý chính sách đối với Việt Nam” [130] đã chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của cuộc CMCN 4.0: kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể; qui mô rộng hơn và tốc độ phát triển nhanh chưa có tiền lệ trong lịch sử nhân loại; tác động mạnh mẽ và toàn diện đến thế giới đương đại. Bên cạnh đó, bản báo cáo cũng phân tích một số tác động của cuộc CMCN 4.0 đến phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đưa ra kiến nghị những chính sách nhằm tận dụng tốt cơ hội và vượt qua những thách thức mà cuộc cách mạng này đem lại cho nước ta: cần tăng cường nâng cao nhận thức của các cơ quan hoạch định chính sách cũng như khu vực doanh nghiệp và khu vực ngân hàng về cuộc
11
CMCN 4.0; cần có những thay đổi căn bản trong điều hành tỷ giá theo hướng linh hoạt và mang tính thị trường hơn để giúp cải thiện năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp; cần xem xét việc đánh thuế tài sản để có thêm nguồn ngân sách dành cho an sinh xã hội; nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ, khuyến khích đổi mới sáng tạo; thực hiện chính sách công nghiệp phù hợp; thực hiện cải cách mạnh hệ thống giáo dục, đào tạo.
Trong kỷ yếu hội thảo “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam” [7] do Viện Hàn lâm Khoa học và xã hội Việt Nam, Ban Kinh tế Trung ương cùng với tổ chức Liên Hợp Quốc tại Việt Nam biên soạn năm 2016, các nhà khoa học đã đưa ra quan niệm về CMCN 4.0, đi sâu phân tích, đánh giá tác động của cuộc CMCN 4.0 đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam (thời cơ và thách thức). Trong đó, nhiều bài viết quan tâm đến đến tác động của CMCN 4.0 đến lĩnh vực lao động, việc làm ở nước ta. Các tác giả cho rằng thách thức lớn nhất đối với lao động, việc làm ở Việt Nam hiện nay là cơ cấu lao động lạc hậu và trình độ lao động thấp, người lao động có nhiều nguy cơ bị mất việc làm dẫn đến phá vỡ cấu trúc thị trường lao động....
Tác giả Nguyễn Văn Bình (chủ biên) (2017) trong cuốn sách “Việt Nam với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” [12] đã cho rằng: CMCN 4.0 là cuộc cách mạng “…dựa trên nền tảng số hóa của cuộc CMCN 3.0 nhưng mang một bản chất khác. Đó là việc máy móc đã bắt đầu thay thế, trợ giúp cho sức suy nghĩ, tư duy hay năng lực trí tuệ của con người. Điều này sẽ tạo ra những thay đổi chưa từng có và được cho là sẽ tạo ra một bước ngoặt mới trong phát triển kinh tế - xã hội.” [12, tr.29]. Tác giả cũng đã đề cập đến từng ngành nghề mũi nhọn trong nền kinh tế Việt Nam như: ngành chế biến, chế tạo, ngành công nghiệp năng lượng, ngành ngân hàng, ngành du lịch, ngành giáo dục, ngành phát triển thương mại kỹ thuật số... trước cuộc cách mạng này.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2017) với cuốn sách “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thời cơ và thách thức đối với Việt Nam” [70]. Cuốn sách tập trung vào làm rõ hơn bản chất, đặc trưng hay biểu hiện của cuộc CMCN 4.0, những tác động có tính quyết định mà cuộc cách mạng này sẽ tạo ra. Có tác giả cho rằng “công nghiệp 4.0” là nền công nghiệp của các nhà máy thông minh và của chuỗi giá trị toàn cầu trong sản xuất - dịch vụ - kinh doanh” [70, tr.28]; “Về bản chất, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cuộc cách mạng số hóa, thông qua các công nghệ như Internet vạn vật (Iot), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại - ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)… để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số.” [70, tr.45]. Từ đó, các tác giả chỉ ra một số ngành nghề chịu ảnh
12
hưởng trực tiếp bởi cuộc cách mạng này sẽ biến mất, nhưng theo đúng quy luật của xã hội loài người một số ngành nghề mới sẽ ra đời thay thế và làm mới nền kinh tế, kéo theo nhiều lao động thủ công mất đi việc làm… Là một cơ sở nghiên cứu và giảng dạy nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng, dưới góc nhìn mang tầm triết học, các tác giả đã vạch ra rất rõ “hình hài” của cuộc CMCN 4.0, và khẳng định nếu như “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai là hai cuộc cách mạng tạo lập nền tảng kinh tế, kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản” thì “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và thứ tư là hai cuộc cách mạng công nghiệp tạo ra tiền đề kinh tế, kỹ thuật cho hình thái kinh tế xã hội mới - chủ nghĩa cộng sản” [70, tr.146].
Tác giả Trần Thị Vân Hoa và các cộng sự (2017) trong cuốn sách “Cách mạng công nghiệp 4.0 - vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam” [68] đã trình bày bối cảnh ra đời, đặc điểm và bản chất của cuộc CMCN 4.0 bao gồm: sự cộng tác chặt chẽ giữa người và máy móc; quá trình sản xuất có thể được nhìn thấy từ các hình ảnh của nhà máy; nguyên tắc kiểm soát phân cấp được thực hiện triệt để; năng lực sản xuất xét về mặt thời gian sẽ được cải thiện đáng kể; mô hình dịch vụ cấp tiến được sử dụng; khả năng tách biệt trở thành một đặc điểm độc đáo của hệ thống sản xuất linh hoạt. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng đề cập đến các xu hướng công nghệ của CMCN 4.0 bao gồm: công nghệ in 3D, internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, trí thông minh nhân tạo, chuỗi khối và công nghệ sinh học. Đồng thời, nội dung cuốn sách cũng đề cập đến kế hoạch hành động của một số quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới ứng phó với CMCN 4.0 và một số lưu ý đối với Việt Nam; khẳng định những cơ hội, thách thức và yêu cầu đặt ra của cuộc cách mạng này đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đã đưa ra phương hướng và các nhóm giải pháp nhằm xây dựng và phát triển năng lực đổi mới sáng tạo phù hợp để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức của CMCN 4.0 ở Việt Nam trong thời gian tới, bao gồm: nhóm giải pháp nâng cao nhận thức; xây dựng, lựa chọn chiến lược và tầm nhìn lâu dài, phát triển quốc gia thông minh; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia; xây dựng hạ tầng kỹ thuật; nhóm giải pháp về thể chế chính sách.
Tác giả Nguyễn Hoàng Hà (2017) trong bài viết “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Thách thức và cơ hội cho phát triển” [56] đã đi sâu tìm hiểu về những đặc trưng cơ bản của CMCN 4.0 bao gồm: 1) Những tiến bộ căn bản trong thế giới thực (vật lý) với sự phát triển của các thiết bị tự động hóa, công nghệ in 3D, rô-bốt hiện đại và các dạng vật liệu mới; 2) Những tiến bộ vượt bậc về thế giới số (ảo) làm tăng khả năng tương tác với thế giới thực nhờ phát triển của internet vạn vật kết nối (IoT) và sự ra đời của các