anh bộ đội. Qua đó, chúng ta sẽ có cái nhìn đúng mức về tài năng, tâm hồn Trần Đăng Khoa và những đóng góp cho nền văn học thiếu nhi qua tập Góc sân và khỏang trời.
6.3. Phương pháp thống kê
Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu. Qua việc khảo sát tập thơ, tôi sẽ thống kê các yếu tố về nội dung và nghệ thuật có tính khái quát trong tập thơ, những hình ảnh, chi tiết được lặp lại nhiều lần nhằm tìm ra cảm hứng chủ đạo và các phép tu từ được sử dụng trong tập thơ. Trên cơ sở này, chúng tôi tìm ra những nét riêng, nét độc đáo của tài năng thơ Trần Đăng Khoa.
7. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài của khóa luận này là một đề tài mới mẻ. Người ta biết đến Trần Đăng Khoa như là một thần đồng thơ với Góc sân và khoảng trời. Thế nhưng, mọi người lại ít quan tâm nghiên cứu tập thơ một cách toàn diện. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn khẳng định tài năng, phong cách riêng của thơ Trần Đăng Khoa. Đồng thời khóa luận sẽ cung cấp một phần kiến thức cho giáo viên cấp I cấp II khi giảng dạy thơ Trần Đăng Khoa cũng như một số phép tu từ có trong phân môn Tiếng Việt.
8. Dàn ý khóa luận
Khóa luận với đề tài “Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu gồm có 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó, nội dung là phần trọng tâm, gồm có 3 chương:
Chương I: Trần Đăng Khoa - “thần đồng” của thi ca Việt Nam: Khóa luận sẽ tìm hiểu về tiểu sử và những nhân tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Trần Đăng Khoa. Bên cạnh đó, sẽ giới thiệu đôi nét nội dung của tập Góc sân và khoảng trời
Chương II: Góc sân và khoảng trời - Những nguồn cảm hứng dào dạt: Chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu những cảm hứng chủ đạo được thể hiện trong tập thơ từ thiên nhiên đến cuộc sống của người dân ở làng quê Trần Đăng Khoa nói riêng và của cả nước nói chung trong không khí sôi sục của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Từ đó, chúng ta sẽ cảm nhận được cái nhìn trong trẻo, tươi sáng, tấm lòng chan chứa yêu thương của Trần Đăng Khoa dành cho quê hương, đất nước, con người Việt Nam anh hùng.
Chương III: Góc sân và khoảng trời - một số hình thức biểu hiện nổi bật: Chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu một số hình thức nghệ thuật nổi bật được biểu hiện trong tập thơ như: giọng điệu, ngôn ngữ và các phép tu từ… Từ đó, chúng tôi khẳng định phong cách riêng của thi sĩ nhỏ tuổi này.
Có thể bạn quan tâm!
- Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu - ĐH Sư phạm - 1
- Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu - ĐH Sư phạm - 3
- Cảm Hứng Từ Hoàn Cảnh Lịch Sử Của Đất Nước
- Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu - ĐH Sư phạm - 5
Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TRẦN ĐĂNG KHOA - “THẦN ĐỒNG” CỦA THI CA VIỆT NAM
1. Đôi nét về Trần Đăng Khoa và tập thơ Góc sân và khoảng trời
1.1. Về Trần Đăng Khoa
Trần Đăng Khoa (bút danh cũng là tên khai sinh) sinh ngày 26/ 04/ 1958 tại thôn Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Bố mẹ Trần Đăng Khoa thuộc rất nhiều truyện và thơ ca cổ. Anh trai và em gái của Trần Đăng Khoa đều là những người say mê văn học. Riêng Trần Đăng Khoa,
khi học hết vỡ lòng (tương đương lớp 1 bây giờ) đã ham đọc sách, đã thuộc rất nhiều ca dao và thơ ca cổ.
Trần Đăng Khoa có bài thơ “Con bướm vàng” được đăng báo từ năm Trần Đăng Khoa 8 tuổi. Tập thơ đầu tiên “Từ góc sân nhà em” in ở Nhà xuất bản Kim Đồng lúc Trần Đăng Khoa tròn 10 tuổi. Nhà thơ Xuân Diệu đã viết bài giới thiệu Trần Đăng Khoa trên báo (ngày 6/ 6 /1973) khi tập thơ thứ hai “Góc sân và khoảng trời” được in năm 1973.
Năm 1975, đang học lớp 10 (tương đương lớp 12 bây giờ), trong đợt tổng động viên khi cuộc kháng chiến chống Mĩ bước vào giai đoạn cuối, Trần Đăng Khoa tình nguyện vào quân ngũ.
Khi kháng chiến chống Mĩ giành thắng lợi, đất nước hoàn toàn giải phóng, Trần Đăng Khoa về học trường Sĩ quan lục quân, rồi tiếp tục học ở trường viết văn Nguyễn Du (khóa IV). Sau đó, Trần Đăng Khoa được cử sang Cộng Hòa Liên bang Nga học tại Học viện Văn học thế giới mang tên M. Gorki. Khi trở về nước, Trần Đăng Khoa làm việc cho Tạp chí Văn nghệ quân đội. Về sau chuyển sang công tác tại Ban văn học nghệ thuật của Đài tiếng nói Việt Nam.
- Các tác phẩm chính
+ In ở trong nước
Từ góc sân nhà em(1968)
Thơ Trần Đăng Khoa, tập 1 (tuyển 1966-1969, 1970)
Khúc hát người anh hùng (trường ca, 1975)
Kể cho bé nghe (1979)
Thơ Trần Đăng Khoa, tập 2 (tuyển 1969-1975, 1983)
+ In ở nước ngoài:
Tiếng hát còn tiếp tục (Pháp 1971)
Góc sân và khoảng trời của tôi (Cuba, 1973)
Cánh diều no gió (CHDC Đức, 1973)
Con bướm vàng (Hunggari, 1973)
- Các giải thưởng:
Giải thưởng thơ Báo Thiếu niên Tiền Phong (1968, 1969, 1971)
Giải thưởng văn học của Bộ lao động - thương binh xã hội (1975) với Trường ca Khúc hát người anh hùng.
Giải A cuộc thi thơ Báo Văn nghệ (1981 - 1982) với bài Đợi mưa trên
đảo Sinh Tồn.
Giải thưởng Báo Người giáo viên nhân dân (1987)
Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (đợt I năm 2001) với tập thơ Góc sân và khoảng trời.
1.2. Về tập Góc sân và khoảng trời
Theo Trần Đình Sử, thế giới nghệ thuật chính là “khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (tác phẩm, sáng tác của một tác giả, trào lưu) thịnh hành trong nghiên cứu văn học hiện đại) ” [16;1660].
Như vậy, thế giới nghệ thuật là sản phẩm, là kết quả của sự sáng tạo của tác giả chỉ có trong tác phẩm nghệ thuật.
Góc sân và khoảng trời là một chỉnh thể nghệ thuật có cấu trúc riêng, quy luật riêng với những cảm nhận của tác giả về thiên nhiên ở nông thôn, về cuộc sống của người nông dân, các anh bộ đội, các em thiếu nhi,… Tiếp cận thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa trong Góc sân và khoảng trời là tiếp cận hệ thống nghệ thuật hoàn chỉnh gồm hai yếu tố nội dung và hình thức thống nhất với nhau. Từ sự tiếp cận đó, ta sẽ khám phá được tư duy nghệ thuật và những sáng tạo độc đáo của nhà thơ nhi đồng Trần Đăng Khoa.
Tập thơ Góc sân và khoảng trời được Trần Đăng Khoa sáng tác từ năm 1966 -1973 được Nhà xuất bản Văn học phát hành vào năm 2006 gồm 142 bài, trong đó có 9 bài được viết vào năm 1974.
Góc sân và khoảng trời được sáng tác trong những năm tháng dầu sôi lửa bỏng của cuộc kháng chiến chống Mĩ nên chứa đựng rất nhiều yếu tố của thời đại. Trần Đăng Khoa, với lòng căm thù giặc sâu sắc, đã tố cáo tội ác của giặc nhưng không phải bằng việc kể ra những sự kiện, thống kê những con số như một nhà sử học mà như một nhà thơ với những vần thơ “mạnh hơn những tiếng bom”.
Cảm hứng chủ đạo trong tập thơ là tình cảm của Trần Đăng Khoa dành cho quê hương, đất nước, con người Việt Nam. Đó là tình cảm yêu thương, gắn bó, tự hào, lạc quan và tin tưởng vào ngày toàn thắng của cách mạng. Tập thơ còn thể hiện một năng lực quan sát rất nhạy bén của Trần Đăng Khoa đối với những cảnh vật, cuộc sống ở nông thôn. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng Trần Đăng Khoa đã biết sử dụng nhiều cách biểu hiện khác nhau trong tập thơ để khắc họa, miêu tả thế giới với những sự vật vô cùng phong phú, đa dạng và sinh
động: nghệ thuật tả cảnh, ngôn ngữ chính xác, gợi cảm khiến hình ảnh quen thuộc trở nên độc đáo và giọng thơ vừa hồn nhiên, trong sáng lại vừa triết lí, sâu sắc. Tất cả những gì Trần Đăng Khoa nhắc đến trong thơ không xa lạ, cao siêu mà ngược lại, rất gần gũi, quen thuộc, thân thương. Gần gũi, quen thuộc đến mức chúng ta không để ý, không nghĩ rằng trăng, cây lúa, con trâu, con mèo, cánh cò, những đồ vật trong nhà… lại có thể viết thành thơ với những nét vô cùng độc đáo của nó. Trần Đăng Khoa, với đôi mắt trẻ thơ, với tài năng thiên bẩm cùng với sự học tập, lao động, sáng tạo nghiêm túc đã viết nên những vần thơ thật hay. Trải qua gần nửa thế kỉ mà tập thơ của một em nhỏ Trần Đăng Khoa vẫn được đánh giá là hay, là có ý, có tình. Đây là trường hợp hiếm hoi của nền văn học nước ta từ trước đến nay.
Với phạm vi nghiên cứu của một khóa luận đại học, chúng tôi xin phép chỉ đi sâu vào hai vấn đề: nguồn cảm hứng dào dạt làm nên Góc sân và khoảng trời và một số hình thức biểu hiện đặc sắc làm nên Góc sân và khoảng trời.
2. Những yếu tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Trần Đăng Khoa
Bất kì một sự thành danh ở lĩnh vực nào cũng phải có sự đóng góp của các nhân tố khách quan bên cạnh tài năng của chủ thể. Trần Đăng Khoa, sẽ không phải là một trường hợp ngoại lệ. Vậy, những nhân tố nào đã góp phần hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Khoa, một hiện tượng nổi bật đến mức Trần Đăng Xuyền đã ca ngợi không tiếc lời là hiện tượng “vô tiền khoáng hậu của nền văn học Việt Nam” ? [14;16].
2.1. Dòng sữa văn học dân gian của quê hương
Tuổi thơ của Trần Đăng Khoa gắn bó máu thịt với thôn Điền Trì, xã Quốc Tuấn - một làng quê ven bờ sông Kinh Thầy. Chính cái cảnh sắc quê hương với hương đồng gió nội, tấm chân tình, mộc mạc của những người dân ở nông thôn Bắc bộ đã tạo môi trường thuận lợi để hồn thơ Trần Đăng Khoa đâm chồi, nảy lộc, đơm hoa, kết trái.
Cũng như bao trẻ em khác, ngay từ khi còn trong nôi, Trần Đăng Khoa đã được nuôi dưỡng bằng những dòng sữa ngọt ngào của văn học dân gian qua những điệu chèo Lưu Bình- Dương Lễ, Quan âm Thị Kính…của bà ngoại, qua những lời kể về tích Hoàng Trừu, Tống Trân - Cúc Hoa… của mẹ. Đặc biệt hơn, mẹ của Trần Đăng Khoa có thể đọc ngược Truyện Kiều.
2.2. Truyền thống gia đình
Trần Đăng Khoa xuất thân trong một gia đình có truyền thống Trần Đăng Khoa bảng và văn học. Nguyễn Hà (ông bác của Trần Đăng Khoa) kể: “Có năm, triều Cảnh Thịnh, trong Lục bộ mà mấy anh em họ Trần - các cụ tổ Trần Đăng Khoa - đã chiếm bốn, trong đó, cụ Trần Nhuận Minh Phủ là nhà thơ” [8; 217].
Từ đó đến đời cha Trần Đăng Khoa thì không thấy xuất hiện trên văn đàn. Đến đời Trần Nhuận Minh (anh ruột Trần Đăng Khoa) đã có năng khiếu làm thơ văn nhưng khá khiêm nhường, bật lên trong thời kì đổi mới mà sau này trong một cuộc trả lời phỏng vấn với báo chí, Trần Đăng Khoa đã cho đó là một sự “lột xác”. Và đến Trần Đăng Khoa thì
đột ngột xuất hiện một giọng thơ mới “hồn nhiên, trong trẻo đến mức khó tin” [14; 16]. Thời ấy, người ta liên tục kéo đến nhà xem cho biết mặt mũi đứa trẻ ấy ra sao, có giống như người bình thường không. Thậm chí, có một số nhà xuất bản đã cử hẳn người đến nhà Trần Đăng Khoa trong thời gian dài để kiểm chứng sự thật tài năng của cậu bé Khoa (Nguyễn Nghiệp đã theo lời Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên đến nhà Trần Đăng Khoa cùng sống, cùng đi cất vó, câu cá, cùng đến trường, cùng dự các buổi sinh hoạt…và chứng kiến những vụ sát hạch của các thầy ở ty giáo dục Hải Hưng và các vị khách vãng lai). Rồi tất cả đều công nhận “thần đồng thơ Trần Đăng Khoa” là sự thật chứ không phải là tin đồn.
2.3. Ảnh hưởng từ các nhà thơ, văn bậc thầy
Một điều may mắn là trong quá trình sáng tác, Trần Đăng Khoa đã được gặp và tiếp xúc với các bậc thầy văn thơ như: Tố Hữu, Huy Cận, Tô Hoài, Chế Lan Viên,… Những nhà văn, nhà thơ ấy đã dìu dắt rất tận tình để Trần Đăng Khoa vượt qua sự ấu trĩ mà phát triển tư duy nghệ thuật, nhanh chóng trưởng thành trong việc sáng tác thơ. Đặc biệt hơn, ngay từ năm 1968, sau khi gặp nhà thơ Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa mới có ý thức được sự vất vả của việc làm thơ. Đó không phải là một cuộc rong chơi nhàn nhã mà đó chính là “một công việc sáng tạo cực nhọc, nếu không muốn nói là nghề lao động khổ ải”. Trần Đăng Khoa đã hiểu đựơc rằng: Thơ cần có tính chân thực nhưng không phải là sự sao chép nguyên vẹn, thô thiển mà phải được sáng tạo một cách công phu, linh hoạt. Hầu như, các bài viết của Trần Đăng Khoa đều được nhà thơ Xuân Diệu đọc trước và đóng góp ý kiến. Trong cuộc đời sáng tác, Trần Đăng Khoa chịu ảnh hưởng sâu sắc của người thầy nghiêm khắc này.
2.4. Sự động viên, giúp đỡ của gia đình và thầy cô, bạn bè
Từ khi biết đọc, biết viết, Trần Đăng Khoa đã hết sức tận dụng tủ sách của anh Trần Nhuận Minh. Anh là người rất thích làm thơ, ham đọc sách. Anh đã tạo cho mình một “thư viện nhỏ” ở trong nhà. Trong “thư viện” ấy, có rất nhiều sách như: Bỉ Vỏ (Nguyên Hồng), Giông tố, Số đỏ ( Vũ Trọng Phụng), truyện ngắn của A. Sekhov, Đỏ và đen (Stendhal),… Trần Đăng Khoa đã đọc rất nhiều khi chỉ là học sinh cấp I, II. Bấy giờ, Trần Nhuận Minh là một thầy giáo, một nhà thơ được nhiều người ngưỡng mộ ở vùng đất mỏ Hồng Gai. Trần Đăng Khoa rất khâm phục tài năng “xuất khẩu thành thơ” của anh trai mình. Để bù đắp những cái mình không được như thế, Trần Đăng Khoa đã bí mật làm rất nhiều bài thơ. Người đầu tiên được thưởng thức thơ Trần Đăng Khoa là bé Thuý Giang. Được anh Trần Đăng Khoa đọc thơ cho nghe, bé Giang rất thích và cứ đọc đi đọc lại cho bạn bè nghe. Khi mọi người biết chuyện, hỏi ra thì mới biết những câu thơ đó là của Trần Đăng Khoa.
Và, một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm cho thơ Trần Đăng Khoa ngày một hay hơn chính là nhờ thầy cô, bạn bè. Những người thầy, người bạn này đã hết lòng động viên, khuyến khích và bình phẩm, sửa chữa thơ Trần Đăng Khoa. Thầy giáo Lê Thường (1) đã cho rằng chính tập thể đã phát hiện, cổ vũ và bồi dưỡng tài năng thơ Trần Đăng Khoa.
(1) “Vai trò của tập thể thiếu niên xã Quốc Tuấn với năng khiếu thơ văn Trần Đăng Khoa” 9
(Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 27, tháng 9/ 1973)
2.5. Thời đại kháng chiến chống Mĩ
Một điều không thể thiếu trong những những yếu tố làm nên những trang văn thơ có giá trị cho đời là yếu tố thời đại mà tác giả đang sống (tất nhiên, tài năng của họ là chủ yếu). Một Nguyễn Du sống trong xã hội phong kiến nhiễu nhương với những quan niệm hẹp hòi đã để lại tác phẩm bất hủ là “Truyện Kiều”. Một Hồ Chí Minh trong những ngày tháng bị giam cầm ở nhà tù Tưởng Giới Thạch chứng kiến nhiều sự bất công tàn bạo đã viết nên “Ngục trung nhật kí”,… Chúng tôi không dám sánh Trần Đăng Khoa với Nguyễn Du, Hồ Chí Minh,… mà chỉ muốn nói rằng, hồn thơ Trần Đăng Khoa được hình thành và phát triển cũng là nhờ một phần vào yếu tố thời đại. Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ đặt dân tộc ta trước những thử thách gay gắt. Đó là một thời đại mà vận mệnh của đất nước, tự do và độc lập dân tộc đứng trước nguy cơ một mất một còn. Đó là một thời đại mà đời sống mà số phận của mỗi người phải gắn chặt với cuộc chiến đấu của dân tộc như lời của Chế Lan Viên: “Những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt. Nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ như nhau”. Đó là một thời đại mà với tính chất gay go, quyết liệt của cuộc chiến đấu chống Mĩ, dân tộc ta phải huy động và phát huy cao độ tất cả sức mạnh vật chất và tinh thần, phải gắn kết tất cả lại với nhau, không phân biệt tầng lớp, lứa tuổi, giới tính, tôn giáo,… để tiến hành công cuộc vệ quốc vĩ đại, khẳng định chính nghĩa, tinh thần và sức sống bất diệt của đất nước và con người Việt Nam.
Trong thời “đất nước đứng lên” như thế, hồn thơ trẻ của Trần Đăng Khoa bỗng vụt sáng như một hiện tượng lạ chưa từng có trong lịch sử văn học nước nhà. Hồn thơ đó đã nói lên tiếng nói chung của cả dân tộc, được mọi người đồng tình, ủng hộ và ngưỡng mộ.
Tóm lại, nếu không có những yếu tố như trên thì hồn thơ của Trần Đăng Khoa sẽ không được hình thành và phát triển. Hoặc là, nếu có hình thành và phát triển cũng không thể gây được tiếng vang như ngày hôm nay.
CHƯƠNG II: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI - NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG DÀO DẠT
1. Cảm hứng từ cảnh vật thiên nhiên và hình ảnh người nông dân
Cũng giống như các cây bút thiếu nhi thời kháng chiến chống Mĩ, Trần Đăng Khoa viết về nhiều đề tài mang âm hưởng thời đại: Lòng yêu mến và tự hào về đất nước anh hùng, niềm kính yêu Bác Hồ, thương mến bộ đội, căm thù giặc, chán ghét chiến tranh…Nhưng, khác với các bạn, Trần Đăng Khoa dành sự quan tâm đặc biệt cho cảnh sắc quê nhà với những bài thơ viết về góc sân, khoảng trời, cánh đồng, dòng sông,… nơi Trần Đăng Khoa sinh ra và lớn lên để rồi đóng góp thêm cho nền thơ ca Việt Nam một “nhà thơ mục đồng” (theo Nguyễn Đăng Mạnh). Có thể nói, những bài thơ viết về nông thôn đã góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật của thơ Trần Đăng Khoa ngay từ thuở nhỏ.
Viết về nông thôn Bắc bộ, trước Trần Đăng Khoa đã có các nhà thơ tiền bối: Nguyễn Khuyến - nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, Nguyễn Bính - nhà thơ chân quê, Anh Thơ – người đã vẽ nên “bức tranh quê” bằng thơ, Đoàn Văn Cừ - ca sĩ của đồng quê,… Vậy mà khi đánh giá về thơ Trần Đăng Trần Đăng Khoa viết về làng quê, Nguyễn Đăng Mạnh đã đặt Trần Đăng Khoa chỉ ở sau tên Nguyễn Khuyến. Nghĩa là, thơ Trần Đăng Khoa viết về nông thôn được đánh giá cao hơn các nhà thơ còn lại? Ông cho rằng: Những nhà thơ của phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) viết về nông thôn nhưng thực ra, chỉ mới là sự vay mượn đề tài, cảm xúc chứ thực tế họ chưa nhập thân vào hiện thực đó. Nhận định này có phần chủ quan của nhà phê bình. Chúng ta có thể đồng tình hoặc không đồng tình. Mỗi người có một cảm nhận riêng khi thưởng thức văn học. Người viết nêu ra chỉ để nhấn mạnh rằng những bài thơ viết về quê hương trong Góc sân và khoảng trời rất chân thực, chan chứa, dào dạt niềm yêu thương và nghệ thuật cũng không kém phần sắc sảo, dù tác giả của các bài thơ đó còn rất ít tuổi.
Cảm hứng về quê hương trong tập Góc sân và khoảng trời là cảm hứng về cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống của những người dân lao động nghèo ở nông thôn.
1.1. Cảnh vật thiên nhiên
Đây là mảng đề tài được Trần Đăng Khoa thể hiện nhiều nhất trong thơ mình. Là một người con được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên Trần Đăng Khoa có tấm lòng yêu thương, gắn bó sâu nặng đối với thôn Điền trì, xã Quốc Tuấn. Trước khi đi tìm những nét đẹp của thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa, ta nên biết nhà thơ được mệnh danh là “thần đồng” đã bắt đầu sự nghiệp sáng tác như thế nào.
Bài thơ đầu tiên của Trần Đăng Khoa là “Con bướm vàng”. Con bướm vàng hiện ra rất thật và sống động với đôi cánh chập chờn. Lúc ấy, Trần Đăng Khoa đang ngồi đun bếp. Nhìn thấy cánh bướm, Trần Đăng Khoa đã đuổi theo hệt như một thi nhân xúc động trước cái đẹp và muốn nắm bắt cho kì được khoảnh khắc tuyệt vời này. Kết quả của việc chạy theo chú bướm ấy là nồi cơm bị trương, Trần Đăng Khoa bị mẹ mắng. Trần Đăng Khoa chỉ
đứng im, không dám bảo là tại làm thơ. Cánh bướm vàng ấy bay là một hoạt động bình thường như các loài vật khác vận động, bắt mồi,... lại chính là tác nhân khơi dậy một hồn thơ còn đang ẩn giấu bên trong một thân hình bé con của cậu bé lớp một. Hồn thơ Trần Đăng Khoa đi lên từ bài thơ đầu tiên “Con bướm vàng” là như vậy đó. Mãi sau này, Trần Đăng Khoa mới tiết lộ ban đầu viết là “Con bướm vàng – Bay nhẹ nhàng – Trên bờ rào…” Trần Đăng Khoa thấy gì ghi nấy, hoàn toàn chưa biết thế nào là ý đồ nghệ thuật. Con bướm vàng chao trên bờ rào là thật chứ không phải là bờ cỏ. Làm gì có “bờ cỏ” ở vườn nhà. Người dân quê, nhất là những người ở miền Bắc đời sống rất khó khăn, chủ yếu là trồng trọt nên họ rất quý đất, có miếng nào là tận dụng cho bằng hết, dù chỉ miếng đất cạnh chân rào, hay ô đất bé bằng bàn tay bên vại nước, không trồng cây thì họ cũng gieo một ít rau thơm hay rau húng láng.
Từ sự gắn bó, từ lòng yêu thương cảnh sắc thiên nhiên của quê nhà, Trần Đăng Khoa đã đưa vào thơ mình những hình ảnh hết sức quen thuộc của làng quê Việt Nam. Đọc thơ Trần Đăng Khoa, không chỉ các em nhỏ mà tất cả chúng ta đều nhận ra sự quen thuộc ấy. Ở đâu mà chẳng có góc sân, cây trầu, khoảng trời, cánh đồng, cánh cò bay,… Ở đâu mà chẳng có chẳng có trò chơi thả diều, chọc ếch, câu cá, … Những hình ảnh đó trong cái nhìn trong trẻo, tinh khiết của trẻ thơ bỗng trở nên có hồn, có thần và đầy chất thơ. Tuy giống đấy mà lại khác đấy. Khác bởi cảm nhận của mỗi người không ai giống ai. Đối với một số người, cây bàng, cây dừa, cây lựu, vườn cải hay chiếc máy cày, cái nồi đồng, cây chổi,… chỉ là những cây, những đồ vật vô tri vô giác. Nhưng đối với Trần Đăng Khoa tất cả là bạn bè, tất cả đều có hồn, có hành động, tất cả đều ngộ nghĩnh, đáng yêu.
Cảnh sắc làng quê trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại thường được miêu tả và cảm nhận trong dáng vẻ của làng quê nông nghiệp cổ truyền. Nguyễn Duy đã viết bài thơ “Hơi ấm ổ rơm” làm cho chúng ta rất xúc động bởi khi đọc lên, từ những dòng thơ tỏa ra một sự ấm nồng lạ lùng làm cho những ai đang sống ở quê hương thì càng thêm yêu mến, những ai đang xa quê thì nhớ thương da diết nơi chôn nhau cắt rốn của mình:
Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta, Riêng cái ấm nồng nàn như lửa. Cái mộc mạc lên hương của lúa, Đâu dễ chia cho tất cả mọi người.
Xuân Quỳnh cũng có cùng cảm xúc như thế trong Cỏ dại:
Trong cuộc đời bình yên tự ngàn xưa, Gần gũi nhất vẫn là cây lúa.
Trần Đăng Khoa của chúng ta chưa từng trải nghiệm trong cuộc sống nhưng đã có bài thơ mà nhiều người nằm lòng:
Hạt gạo làng ta Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy