mặt, họ là chủ thể của tội phạm, mặt khác họ là những người đặc biệt cần được các quy phạm pháp luật bảo vệ. Với tư cách là chủ thể của tội phạm, độ tuổi người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm hình sự là khi họ từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị Luật hình sự cấm. Điều đó có nghĩa là ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi họ có năng lực trách nhiệm hình sự để có thể gánh chịu những hậu quả pháp lý hình sự do hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình gây ra. Với tư cách là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ bởi các quy phạm pháp luật hình sự, Bộ luật hình sự đã dành hẳn một chương riêng quy định đối với người chưa thành niên phạm tội (Chương X) và Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng dành phần thứ bảy - thủ tục đặc biệt chương XXXII quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên cho thấy quyền của người chưa thành niên được các quy phạm pháp luật tư pháp hình sự bảo vệ đặc biệt.
1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Quyền là cái mà luật pháp, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại”. Ngay trong khái niệm này, ta có thể thấy, để được coi là quyền và để bảo vệ quyền cần có sự thể hiện “thái độ” của xã hội và luật pháp. Hay nói cách khác, những quyền tự nhiên, vốn có của con người, như: Quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc và các lợi ích, nhu cầu khác trở thành quyền khi được xã hội, pháp luật pháp ghi nhận và bảo bảo đảm thực hiện.
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định: Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị cáo là người đã bị Toà
án quyết định đưa ra xét xử. Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra. Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng. Người bị kết án là người đã có quyết định thi hành bản án có hiệu lực pháp luật của Toà án. Do đó, có thể hiểu:
Người bị tạm giữ là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ bị cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giữ khi có các căn cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Bị can là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ bị cơ quan tố tụng có thẩm quyền khởi tố về hình sự vì có căn cứ xác định là họ thực hiện hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Bị cáo là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ bị Toà án quyết định đưa ra xét xử căn cứ vào quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt Nam - 1
- Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt Nam - 2
- Pháp Luật Việt Nam Về Bảo Vệ Quyền Của Người Chưa Thành Niên Trong Tư Pháp Hình Sự Từ Năm 1945 Đến 1985.
- Bảo Vệ Quyền Của Người Chưa Thành Niên Với Tư Cách Là Người Bị Tạm Giữ, Bị Can, Bị Cáo, Người Bị Kết Án.
- Bảo Vệ Quyền Của Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Thông Qua Chế Định Hình Phạt
Xem toàn bộ 166 trang tài liệu này.
Người bị kết án là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ đã bị Toà án xét xử và tuyên bản án có hiệu lực pháp luật căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Người bị hại là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra và được cơ quan tiến hành tố tụng xác định là người bị hại theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Người làm chứng là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi biết được những tình tiết liên quan đến vụ án và được các cơ quan có thẩm quyền xác định là người làm chứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Tư pháp hình sự Việt Nam về bảo vệ quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người bị hại, người làm chứng được nghiên cứu trong luận văn là toàn bộ các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 và Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2003 quy định về người chưa thành niên.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự như sau:
Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự là bảo bảo thực hiện các quyền của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được ghi nhận trong pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự.
1.1.3. Cơ sở để nhà làm luật quy định quyền của người chưa thành niên trong tư pháp hình sự.
Để được coi là người chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt Nam, các nhà lập pháp đã dựa trên hai tiêu chí, đó là: Độ tuổi và trình độ phát triển tâm sinh lý.
Điều 12 Bộ luật hình sự 1999 quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Điều 68 Bộ luật hình sự cũng quy định:
“Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự...”
Khi xây dựng điều này của Bộ luật có ý kiến đề xuất là nên cân nhắc độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự lên 16 tuổi cho phù hợp với Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, ở đây cần phân biệt rõ khách thể bảo vệ trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trách nhiệm phải chịu hậu quả pháp lý về hành vi nguy hiểm cho xã hội là hai phạm trù khác nhau. Trong khi luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trả lời cho chúng ta câu hỏi: Độ tuổi nào thì trẻ em cần thiết phải được hưởng sự bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đặc biệt của cộng đồng xã hội? Thì pháp luật hình sự lại khẳng định cho chúng ta là bắt đầu từ độ tuổi nào thì một con người có nhận thức khá đầy đủ và phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của mình.
Ở một khía cạnh nào đó, độ tuổi bắt đầu phải chịu trách nhiệm hình sự cũng chịu ảnh hưởng của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm trong từng giai đoạn của quá trình phát triển xã hội. Tuy nhiên, việc tăng hay giảm độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự không thể do một quyết định duy ý chí mà phải dựa trên những cơ sở sau:
- Trình độ phát triển dân trí, bào gồm cả trình độ văn hoá và trình độ hiểu biết pháp luật.
- Điều kiện kinh tế - xã hội.
- Tình hình diễn biến tội phạm.
- Tập quán pháp lý truyền thống.
- Tương quan với sự phát triển của các ngành pháp luật khác.
Pháp luật của các nước quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự ít khi có sự thay đổi về độ tuổi. Điều này lý giải tại sao ở Úc độ tuổi này vẫn giữ nguyên là mười tuổi mặc dù trình độ dân trí, điều kiện kinh tế - xã hội rất phát triển. Ngược lại, cũng không thể giải thích rằng sở dĩ Nhật Bản vẫn giữ nguyên độ tuổi bắt đầu phải chịu trách nhiệm hình sự là mười lăm vì ở nước Nhật trẻ em dưới 15 tuổi không có những hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải có sự can thiệp của pháp luật. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là
độ tuổi bắt đầu phải chịu trách nhiệm hình sự là bất biến (không thay đổi mỗi khi đã quy định vào luật) mà là việc thay đổi đó phải được xem là giải pháp tình thế cần thiết cuối cùng và là một quyết định có ý nghĩa chính trị - pháp lý cần được cân nhắc kỹ càng.
Về tâm - sinh lý
Dựa trên cơ sở của pháp luật hình sự, lứa tuổi này có thể phân thành hai nhóm, mỗi nhóm có những đặc điểm riêng. Nhóm thứ nhất từ 14 tuổi tròn đến dưới 16 tuổi, với đặc điểm là vừa vượt qua giai đoạn trẻ con, gần gia đình và sống phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào gia đình. Nhóm thứ hai, từ 16 tuổi tròn đến dưới 18 tuổi - với đặc điểm đang ở giai đoạn sắp bước vào tuổi người lớn, nhận thức xã hội khá hơn nhóm thứ nhất nhưng vẫn chưa tách khỏi gia đình, kinh tế vẫn còn phụ thuộc vào gia đình.
Ở lứa tuổi này, người chưa thành niên đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ về thể lực và tâm sinh lý. Khả năng phát triển cụ thể của từng người có thể khác nhau, song nhìn chung đây là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi trẻ con sang tuổi người lớn, không còn thụ động với vai trò của người được dạy dỗ nhưng lại chưa hẳn là người lớn. Sự vươn lên vị trí độc lập của người chưa thành niên theo xu hướng chung diễn ra rất tự phát. Đối với họ, những áp đặt của người lớn, sự chỉ bảo cặn kẽ, việc kiểm tra, giám sát đã trở thành “xiềng xích” và cần phá bỏ. Họ muốn thoát ra khỏi sự ràng buộc với người lớn bằng nhiều cách khác nhau, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của từng người. Họ rất dễ xúc động, khi thì trầm tư, khi sôi nổi. ở lứa tuổi này, tâm trạng của người chưa thành niên rất thất thường, dễ bị kích động, lòng kiên trì và năng lực tự kiềm chế thấp. Thích tìm hiểu mọi vấn đề, muốn tò mò mọi chuyện để “làm người lớn”. Tính hiếu thắng đã trở thành phổ biến trong mỗi hành động của họ và nhiều khi là động cơ trực tiếp thúc đẩy người chưa thành niên đi đến quyết định bột phát, thiếu suy nghĩ, thiếu cân nhắc kỹ lưỡng và nhiều khi trở thành
liều lĩnh. ở lứa tuổi dưới 18, người chưa thành niên đều rất linh hoạt, nhạy cảm và hiếu động, có trí tưởng tượng phong phú, vì vậy ranh giới giữa cái đúng - sai thường dễ lẫn lộn. Về mặt động cơ hành vi của người chưa thành niên là loại hành vi dễ chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh, nhạy bén về tinh thần, có tính hay học đòi, bắt chước nhưng chưa có khả năng tự kiềm chế và đánh giá vấn đề xảy ra một cách toàn diện.
Tựu chung lại, ở ranh giới giữa trẻ em và người lớn, con người thường tồn tại những diễn biến tâm lý phức tạp. ở giai đoạn này, nhân cách con người chưa ổn định, mọi hành vi cũng như động cơ dễ chịu sự tác động từ môi trường bên ngoài. Quá trình hình thành tính cách và phẩm chất cá nhân phụ thuộc vào thân nhân của họ. Môi trường giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội cũng là yếu tố chi phối có tính quyết định. Nếu sống trong môi trường lành mạnh, người chưa thành niên sẽ có điều kiện phát triển toàn diện để trở thành một công dân có ích. Nhưng ngược lại, ở một môi trường sống phức tạp, lộn xộn thì sự ảnh hưởng xấu đến tâm lý trẻ em là một điều không thể tránh khỏi. Chính bởi sự phát triển chưa đầy đủ về phẩm chất và tinh thần mà pháp luật dành cho người chưa thành niên một sự quan tâm, bảo vệ đặc biệt. Các chế định đều lấy giáo dục, thuyết phục làm biện pháp chính điều chỉnh hành vi của họ.
1.2. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TƯ PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự thời kỳ Phong kiến (Thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX).
Thoát khỏi hệ tư tưởng phong kiến bảo thủ, lạc hậu và chuyên chế, Quốc Triều hình luật thời nhà Lê và Hoàng Việt Luật lệ thời nhà Nguyễn là
hai bộ luật khá công phu đương thời đã có những quy định mang nội dung tiến bộ bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong xã hội, cụ thể là: Điều 16 Quốc Triều hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) ghi nhận: “Những người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống cùng những người bị phế tật, phạm từ tội lưu trở xuống đều cho chuộc bằng tiền, phạm tội thập ác thì không theo luật này. ..từ 7 tuổi trở xuống dầu có bị tội chết cũng không hành hình, nếu có kẻ nào xui xiểm thì bắt tội kẻ xui xiểm, nếu ăn trộm có tang vật thì kẻ nào bất chấp tang vật ấy phải bồi thường ...” (Nhóm tội thập ác: Mưu phản, mưu đại nghịch, mưu chống đối, ác nghịch, bất đạo, đại bất kính, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa và nội loạn) [9 - tr16]. Điều này cũng được quy định tương tự trong Hoàng Việt Luật lệ (hay còn gọi là Bộ luật Gia Long) quyển 10 Điều 10 về việc “không được tra tấn người già từ 70 tuổi trở lên, trẻ em từ 15 tuổi trở xuống có phạm tội thì quan ty không được dùng hình phạt tra khảo, chỉ căn cứ vào bằng chứng mà định tội; từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống đều không được bắt họ làm chứng và đưa ra chế tài cho việc vi phạm những quy định này như “trái luật này thì bị phạt 50 roi” [9 -tr1]
Luật pháp Phong kiến còn áp dụng nguyên tắc có lợi cho người chưa thành niên phạm tội: “Khi còn bé nhỏ phạm tội, đến khi lớn mới phát giác, thì xử tội theo luật khi còn nhỏ” [9 - tr17]. Hay những quy phạm bảo vệ cho người chưa thành niên là người bị hại, ví như: “Gian dâm với con gái nhỏ từ 12 tuổi trở xuống, dù người con gái thuận tình cũng xử như tội hiếp dâm” [9 - tr4]; Và những chế định thể hiện chế định miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt “Những người đáng được nghị xét giảm tội, như 70 tuổi trở lên và 15 tuổi trở xuống hay bị phế tật, nếu phạm tội thì không được tra tấn, chỉ căn cứ vào lời khai của những người làm chứng mà định tội; nếu quan hình ngục làm trái điều này thì coi như phạm tội cố ý buộc tội người. Trong luật có điều được phép ẩn giấu cho nhau, như người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và người
bị bệnh nặng thì không được gọi ra làm chứng, nếu trái luật này thì bị biếm một tư”. (665 - Điều 8)
Một đặc điểm về việc xét xử đối với những đối tượng là người chưa thành niên trong luật hình thời Phong kiến đó là, mặc dù bản thân người chưa thành niên không trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, nhưng họ vẫn có thể bị đưa ra xét xử và phải chịu hình phạt khi một người trong gia đình, dòng tộc thực hiện một trong những hành vi phạm tội xâm phạm nghiêm trọng đến quan hệ Vua - Tôi, an ninh quốc gia, tính mạng và sở hữu cá nhân [55- tr410].
Từ những điều luật trên ta có thể thấy pháp luật phong kiến quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ 15 tuổi trở lên, người từ 15 tuổi trở xuống chỉ phải chịu trừng phạt khi phạm tội nghiêm trọng - Tội thập ác. Trẻ em từ 7 tuổi trở xuống được tha miễn hoàn toàn.
Như vậy, tuy rằng pháp luật phong kiến là pháp luật bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị, cho địa chủ, quan lại nhưng ta cũng không thể phủ nhận những yếu tố tiến bộ trong những quy định đó. Tuy có rất ít các điều khoản quy định bảo vệ quyền cho người chưa thành niên, song các quy định đó là hết sức tiến bộ, thể hiện sự phát triển vượt bậc so với sự phát triển của các quan hệ sản xuất phong kiến đương thời. Tuy có những hạn chế nhất định song những quy định đó thể hiện những giá trị to lớn, là công cụ bảo vệ người chưa thành niên và là di sản pháp luật cho hiện tại và tương lai.
1.2.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự thời kỳ Pháp thuộc.
Do đất nước bị phân chia, cát cứ thành các miền khác nhau với các chế độ chính trị, pháp luật ở các miền khác nhau. Pháp luật hình sự có những quy định không thống nhất, từng miền, từng vùng có những quy phạm khác nhau mặc dù cùng điều chỉnh một nội dung. Ví dụ, việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở mỗi miền lãnh thổ khác nhau. Điều 55 Bộ luật hình sự Bắc