Tóm lại, có nhiều nguyên nhân khách quan, nằm bên trong cấu trúc thể chế tổ chức lẫn khuyến khích cá nhân khiến cho khu vực DNNN thường hoạt động kém hiệu quả hơn hơn so với khu vực DNTN ở hầu khắp các nền kinh tế thị trường. Nhận rò điều này, xu hướng cải tổ, sắp xếp lại và thu hẹp khu vực DNNN đã diễn ra rộng rãi ở các nước, đặc biệt từ những năm 80 của thế kỷ trước.
2.1.3. Thực chất của CPH doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hóa DNNN là quá trình biến một DNNN, hoàn toàn do nhà nước sở hữu thành một công ty cổ phần, hoạt động trên nền tảng sự góp vốn của nhiều người khác nhau với tư cách là các cổ đông. Quá trình này có thể được thực hiện theo nhiều phương cách: đối tượng cổ phần hóa có thể là toàn bộ hay một phần tài sản của DNNN; trong cấu trúc sở hữu của DN sau CPH, nhà nước có thể vẫn nắm giữ một tỷ trọng vốn cổ phần đáng kể, thậm chí là có ý nghĩa chi phối, song cũng có thể thoái vốn hoàn toàn, do đó không còn là cổ đông của CTCP. Trong trường hợp nhà nước là cổ đông lớn nhất, có khả năng khống chế, chi phối CTCP, trên nhiều phương diện, DN sau CPH rất gần với một DNNN. Trong trường hợp sau, DN sau CPH sẽ hoạt động như một doanh nghiệp tư nhân cho dù dưới hình thức công ty cổ phần, nó do nhiều người sở hữu chứ không giống như một doanh nghiệp cá thể, do một cá nhân duy nhất sở hữu.
Mục đích của CPH DNNN là nhằm hướng tới việc: (1) Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp; (2) Tạo khả năng huy động các nguồn vốn xã hội để phát triển sản xuất kinh doanh; (3) Tăng cường sự giám sát của chủ sở hữu đối với hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện để các doanh nghiệp và người lao động được tự chủ hơn trong kinh doanh. Trong đó, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được xem là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá việc CPH một DNNN thành công hay không thành công.
Hướng theo cái đích như vậy, quá trình CPH DNNN không đơn giản chỉ là quá trình chuyển đổi sở hữu từ hình thức sở hữu nhà nước đơn nhất sang hình thức đa sở hữu như nhiều người thường diễn giải [1, tr.22; 47, tr.27...]. Đằng sau sở hữu nhà nước là sở hữu xã hội hay sở hữu toàn dân, do đó tài sản thuộc sở hữu nhà nước về bản chất là tài sản đồng sở hữu của mọi cá nhân trong xã hội. Nếu hiểu đa sở hữu trong CTCP là hình thức đồng sở hữu của nhiều cổ đông cá nhân, thì thậm chí sở hữu nhà nước còn mang tính chất đa sở hữu hơn, vì phạm vi đồng sở hữu được mở rộng hơn. Còn nếu hiểu đa sở hữu trong CTCP như sự pha trộn, kết hợp sở hữu công (khi nhà nước vẫn là một cổ đông) và sở hữu tư, thì cần lưu ý trường hợp nhà nước vẫn là một cổ đông lớn, có khả năng chi phối, lấn át các cổ đông khác. Như ở phần sau của luận án đã chỉ ra, trong trường hợp này, những thay đổi trong phương thức quản lý và vận hành DN sau CPH ít xảy ra, hiệu quả hoạt động của nó không có sự cải thiện rò rệt. Mục đích của CPH sẽ không đạt được.
Như vậy, quá trình CPH DNNN phải từ sự thay đổi cấu trúc sở hữu để tạo ra những động lực và khuyến khích mới, phù hợp với các nguyên tắc thị trường, nhằm đem lại một sức sống mới cho các DN được CPH, nhờ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của chính khu vực DNNN cũng như của cả nền kinh tế. Điều này chỉ đạt được khi tính chất “vô chủ” của sở hữu công và các khuyết tật nảy sinh từ đó được khắc phục.
Nói cách khác, thực chất của quá trình cổ phần hóa DNNN là sự chuyển đổi tài sản thuộc sở hữu chung của toàn dân vốn được sử dụng trong một DNNN cụ thể thành tài sản riêng của một tập thể người xác định, biến những tài sản này từ chỗ được đối xử như là tài sản “vô chủ”, “phi cá nhân hóa” (trong dân gian người ta thường nói là tài sản “chùa”) thành những tài sản hữu chủ, tài sản của các cá nhân cụ thể, đích thực. Quá trình này cũng là quá trình định vị lại vai trò, vị trí Nhà nước cũng như khu vực DNNN. Đứng
trước các tác nhân thị trường (những người sản xuất và tiêu dùng), nhà nước phải xuất hiện như một thể chế đặc biệt, chủ yếu đóng vai trò là người trung gian, tạo ra và thực thi “luật chơi” bình đẳng trên „sân chơi” thị trường hơn là người trực tiếp đầu tư, sản xuất hàng hóa, dịch vụ. Nhà nước chỉ can thiệp vào nền kinh tế khi có sự thiếu vắng thị trường hay có sự tồn tại của “thất bại thị trường”. Các công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế chủ yếu phải là các công cụ mang tính “trung lập” (không thiên vị) như luật pháp, các chính sách thuế, chi tiêu chính phủ, chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại...Bên cạnh đó, nhà nước có thể sử dụng các DNNN như một công cụ để sửa chữa các thất bại thị trường, song không phải để điều tiết kinh tế vĩ mô (ví dụ để bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát chẳng hạn, việc nhà nước sử dụng chính sách tiền tệ hay tài khóa sẽ hiệu quả hơn, ít tốn kém hơn vì nó không gây ra sự méo mó đối với hệ thống giá cả cũng như tạo ra gánh nặng trợ cấp đối với ngân sách nhà nước), mà là để cung cấp những hàng hóa, dịch vụ mà khu vực tư nhân cung cấp không hiệu quả, không muốn cung cấp hoặc chưa có khả năng cung cấp (ở những nơi khu vực tư nhân còn nhỏ bé). Đối với các nền kinh tế thị trường điển hình, đó chính là các hàng hóa, dịch vụ công, và một số ít hàng hóa, dịch vụ tư, có chi phí giao dịch cao, liên quan đến việc tiêu dùng của đông đảo dân chúng (điện, nước, giao thông vận tải, dịch vụ bưu chính...). Nói cách khác, CPH DNNN đối với các nước đang phát triển hay chuyển đổi chính là một nội dung quan trọng của tiến trình tái cấu trúc nền kinh tế, xác lập lại tương quan giữa khu vực công và tư phù hợp với nguyên tắc của nền kinh tế thị trường, vốn lấy vận hành lành mạnh của khu vực tư nhân làm động lực chính để tồn tại và phát triển.
Quá trình CPH DNNN cũng mở ra khả năng theo đó những người lao động cũng trở thành cổ đông, thành những người đồng sở hữu doanh nghiệp, từ đó tạo ra quyền làm chủ đích thực của họ đối với doanh nghiệp. Khi gắn với lợi ích thiết thân của chính họ, sự giám sát tập thể của người lao động đối
với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh một phần nào đó sẽ được tăng cường và chính quá trình này cũng tạo ra cơ chế phân phối lợi ích hài hòa hơn giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Những Vấn Đề Kinh Tế-Xã Hội Nảy Sinh Trong Quá Trình Cph Và Hậu Cph Dnnn
- Các Công Trình Nghiên Cứu Quá Trình Cph Dnnn Trên Địa Bàn Tỉnh Thanh Hóa
- Khái Lược Chung Về Cổ Phần Hóa Các Doanh Nghiệp Nhà Nước
- Các Vấn Đề Kinh Tế-Xã Hội Cụ Thể Thường Nảy Sinh Trong Quá Trình Cph Dnnn
- Những Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Các Vấn Đề Kinh Tế- Xã Hội Nảy Sinh Trong Quá Trình Cph Dnnn
- Những Biện Pháp Hỗ Trợ Của Nhà Nước Đối Với Các Doanh Nghiệp Trong Quá Trình Cổ Phần Hóa
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
2.1.4. Cổ phần hóa DNNN – giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những yếu kém của khu vực DNNN và nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế
Cổ phần hóa DNNN là một trong những nội dung quan trọng của quá trình sắp xếp lại và đổi mới hoạt động của khu vực DNNN, nhằm tạo ra các chủ thể kinh tế đích thực phù hợp với các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường. Sự cần thiết của quá trình CPH DNNN bắt nguồn từ những lý do sau:
Thứ nhất, do sự yếu kém, hạn chế bắt nguồn từ tính chất sở hữu công của các DNNN như đã được phân tích. Để khắc phục điều này, cần thiết phải chuyển đổi hình thức, tính chất sở hữu đối với tài sản trong các doanh nghiệp nhà nước, trừ một số ít DNNN cần thiết phải giữ lại để nhà nước thực hiện các chức năng của mình mà khu vực tư nhân không thể thay thế được.
Thứ hai, do tính ưu việt của công ty cổ phần cho phép nó trở thành hình thức có thể thay thế và khắc phục những hạn chế, yếu kém của DNNN.
Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh hay một loại hình doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở góp vốn của nhiều người với tư cách là các cổ đông– những người đồng sở hữu công ty, thông qua việc nắm giữ lượng cổ phiếu hay số vốn cổ phần khác nhau của công ty. Công ty cổ phần là một dạng tổ chức kinh doanh có trách nhiệm hữu hạn. Với tư cách là những người đồng sở hữu, các cổ đông không có quyền rút vốn trực tiếp mà chỉ có thể rút vốn một cách gián tiếp thông qua quá trình chuyển nhượng cổ phiếu (tức chứng chỉ xác nhận sở hữu cổ phần) cho người khác. Chính thể thức này cho phép công ty cổ phần có thể tồn tại bền vững hơn so với các loại hình tổ chức kinh doanh chung vốn khác. Những ưu việt của CTCP so với các loại hình DNTN khác thể hiện ở những điểm sau:
- Chế độ trách nhiệm hữu hạn của công ty cổ phần cho phép các cổ đông của nó chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi phần vốn góp. Tính chất “trách nhiệm hữu hạn” giới hạn mức độ thiệt hại tối đa mà cổ đông phải gánh chịu khi công ty làm ăn thua lỗ, nợ nần nên nó giảm thiểu mức độ rủi ro (so với các hình thức tổ chức kinh doanh khác) cho các cổ đông trong việc lựa chọn các kênh đầu tư vốn của mình. Đây là lợi thế khiến cho công ty cổ phần dễ dàng huy động vốn từ nhiều người khác nhau, và vì thế, khi điều kiện kinh doanh thuận lợi, các công ty cổ phần dễ dàng mở rộng quy mô hơn hẳn so với các loại hình doanh nghiệp trách nhiệm vô hạn. Không phải ngẫu nhiên mà ở các nền kinh tế thị trường điển hình, các DN lớn thường tồn tại dưới hình thức CTCP.
- Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, nó có thể có mặt trong hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề do cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty. Khả năng huy động vốn của công ty cổ phần rất cao, do có hình thức huy động vốn rộng rãi thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng.
- Việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.
- Người lao động trong doanh nghiệp cổ phần có thể vừa là người lao động vừa là chủ sở hữu một phần vốn của doanh nghiệp. Khi họ có cả tư cách là người chủ sở hữu, họ sẽ có trách nhiệm cao hơn trong việc giám sát, kiểm tra đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có động lực hơn trong việc thực thi các nhiệm vụ của mình trong các khâu hoạt động của công ty.
Mặt khác, so với các DNNN thì lợi thế của công ty cổ phần lại nằm chủ yếu ở tính chất sở hữu xác định của nó. Tuy nó được hình thành trên cơ sở sự góp vốn của nhiều người, do đó các cổ đông cũng là những người đồng sở
hữu, song đó là chế độ đồng sở hữu của một nhóm nhỏ người xác định trong xã hội thay vì là sở hữu chung của hàng triệu người trong toàn xã hội. Vị thế
„đồng sở hữu” của các cổ đông trong CTCP cũng khác nhau, không giống chế độ đồng sở hữu trong DNNN hay hợp tác xã (HTX): tiếng nói, quyền lực ra quyết định của mỗi cổ đông phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của họ. Điều này tạo ra sự thống nhất và gắn kết trách nhiệm và quyền lợi trong tất cả các khâu: đóng góp đầu vào, quản lý và kiểm soát quá trình kinh doanh, phân phối kết quả kinh doanh. Vì thế, khi được CPH, nhờ tài sản của DN có được những người sở hữu cụ thể, đích thực, có động cơ và lợi ích thiết thân trong việc bảo vệ, khai thác một cách có hiệu quả các tài sản này mà những bất ổn gắn liền với tính chất sở hữu công về cơ bản được giải quyết. Điều đó sẽ mở đường cho những thay đổi khác trong bộ máy quản lý, phương thức quản trị cũng như toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ ba, thông qua quá trình CPH DNNN, một mặt các DNNN được CPH có động lực để hoạt động hiệu quả hơn, do đó sẽ cải thiện sức cạnh tranh và hiệu quả chung của cả nền kinh tế. Mặt khác, số lượng các DNNN còn lại sẽ giảm xuống cho phép nhà nước có điều kiện đầu tư và quản lý tốt hơn khu vực DN mà nhà nước trực tiếp sở hữu. Việc giải phóng một bộ phận DNNN khỏi khu vực công, cho phép chúng tồn tại như các CTCP, đặc biệt như là một loại hình DN của khu vực tư nhân sẽ tạo ra áp lực và nền tảng hay tiền đề để nhà nước phải đối xử bình đẳng hơn với tất cả DN, nhờ đó làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh chung và tăng cường sự cạnh tranh giữa các DN. Điều đó là cần thiết để nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế.
Ngoài ra, với quá trình CPH, nhà nước có thể cắt giảm được nhiều khoản bù lỗ cho nhiều DNNN làm ăn kém hiệu quả trước đây, đồng thời có thể thu về một lượng tài chính đáng kể nhờ thoái vốn và bán tài sản của các
DNNN để cải thiện cán cân ngân sách và thực hiện tốt hơn các chức năng khác không thể thoái thác của mình.
2.2. Các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
2.2.1. Xung đột lợi ích – cội nguồn sâu sa của các vấn đề kinh tế-xã hội nẩy sinh trong quá trình CPH DNNN
Trong ngôn ngữ hàng ngày, thuật ngữ “các vấn đề” thường hàm chỉ những tình huống khó khăn, không được mong đợi, có khả năng tạo ra những mối nguy hại hay tác động tiêu cực mà người ta cần phải giải quyết hay vượt qua. Như mọi quá trình kinh tế - xã hội khác, quá trình CPH DNNN cũng thường nảy sinh những vấn đề kinh tế - xã hội mà người ta buộc phải vượt qua. Đó chính là những “khó khăn, bất cập”, những “vướng mắc cần tháo gỡ”, “các điểm nghẽn” phát sinh từ quá trình CPH DNNN, có tác động xấu đến tiến trình này, do đó, việc giải quyết chúng trở thành cần thiết để đảm bảo cho tiến trình này đi đến thành công. Các vấn đề như vậy hiện diện trong tất cả các khâu của quá trình CPH, từ giai đoạn chuẩn bị CPH cho đến khi công ty cổ phần đã vận hành như kết quả của việc CPH một DNNN trước đó.
Cổ phần hóa các DNNN là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu từ chỗ các tài sản của DN được xem là sở hữu chung của toàn xã hội (mà nhà nước là người đại diện) sang chỗ chúng thuộc sở hữu của một nhóm cổ đông cụ thể. Là một quá trình chuyển đổi, quá trình cổ phần hóa DNNN chứa đựng trong nó những xung đột, mâu thuẫn lợi ích giữa các chủ thể kinh tế có liên quan. Trong một DNNN sắp được CPH, luôn tồn tại sự khác biệt giữa lợi ích xã hội mà nhà nước là người đại diện, lợi ích cá nhân của các quan chức thuộc cơ quan “chủ quản” của DN, lợi ích của các những người lãnh đạo DNNN, lợi ích của những người lao động, lợi ích của các nhà đầu tư tiềm năng. Trong một DN sau cổ phần hóa, luôn tiềm ẩn sự xung đột lợi ích giữa lợi ích xã hội, lợi ích của các cổ đông, lợi ích của những người lao động. Trong cả hai
trường hợp, quá trình CPH còn tác động đến lợi ích của các nhóm xã hội khác có liên quan đến sự hoạt động của DNNN hay DN sau CPH như: nhà cung cấp, người tiêu dùng, các quan chức chính quyền…[Trong nội bộ từng nhóm xã hội (ví dụ giữa các cổ đông hay những người lao động…), sự thống nhất lợi ích không phải luôn luôn được đảm bảo – điều này phụ thuộc vào chính sách hay cơ chế phân phối thu nhập cụ thể của từng doanh nghiệp. Tuy nhiên, khía cạnh này vượt ra ngoài phạm vi xem xét của luận án]. Lợi ích của các chủ thể khác biệt nhau này trở nên xung đột với nhau khi quá trình CPH làm cho ai đó bị thiệt hại trong khi người khác lại có thể được hưởng lợi. Trong quá trình chuyển đổi hình thái sở hữu do CPH, những người bị thiệt là những người mà lợi ích của họ gắn liền với việc duy trì hình thức sở hữu công trong doanh nghiệp (những người lãnh đạo DN, một bộ phận người lao động trong DN, những cán bộ ở cơ quan nhà nước trực tiếp “quản lý” DN, những nhà cung cấp “độc quyền” của DN…). Những người được lợi là toàn xã hội nói chung và những người có tiềm năng khai thác tài sản và sức lực của mình tốt hơn khi DNNN được cổ phần hóa. Khi tài sản xã hội được sử dụng hiệu quả hơn, lợi ích gia tăng sẽ gián tiếp làm lợi cho các thành viên khác trong xã hội. Vấn đề là ở chỗ: khi quá trình cổ phần hóa mới bắt đầu, nó có thể trực tiếp đe dọa và làm tổn hại đến lợi ích khá tập trung của một số nhóm người cụ thể, trong khi đó lợi ích xã hội mà nó mang lại cho nhiều người lại mang tính chất “tiềm năng” và phân tán. Đó là lý do khiến quá trình cổ phần hóa bị chống đối, công khai hay ngấm ngầm, và nhiều khi là quyết liệt bởi những người bị thua thiệt, mất mát về lợi ích.
Mặt khác, quá trình CPH có thể bị “méo mó”, do đó bị đi chệch ra khỏi mục tiêu mà xã hội kỳ vọng nếu nó được thúc đẩy theo hướng làm lợi cho một nhóm nhỏ trên cơ sở sự thiệt hai chung của toàn xã hội (ví dụ như khi nó cho phép một nhóm nhỏ người có thể thu gom tài sản xã hội với giá cực kỳ rẻ mạt và dễ dàng trở nên giàu có). Trong một môi trường thiếu công khai, minh