Theo quy định tại Khoản 1, Điều 27 của LCCLHN&GĐ năm 2000 và quy định về thời điểm chuyển giao quyền sở hữu nhà ở tại Khoản 5, Điều 93 của Luật Nhà ở năm 2005 thì căn hộ chung cư là tài sản chung của bà Trang và ông Sahar.
Tuy nhiên, ông Sahar thông qua người phiên dịch đã khẳng định bà Trang mua căn hộ bằng tiền riêng của bà Trang trước khi kết hôn với ông. Ông Sahar không góp bất kỳ khoản tiền nào để mua căn hộ, thậm chí còn không biết bà Trang mua căn hộ này cho đến khi bà Trang đề nghị công chứng.
Trước đây, Điểm b, Mục 3 của Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của LHN&GĐ 1986 có quy định:
Tài sản riêng của ai thì người đó được lấy về, những người có tài sản riêng phải chứng minh tài sản đó là tài sản riêng của mình. Việc chứng minh có thể được thực hiện bằng sự công nhận của bên kia, bằng giấy tờ (văn tự, di chúc…) và bằng hình thức khác. Nếu không chứng minh được là tài sản riêng thì tài sản đó là tài sản chung [57].
Tuy nhiên, sau khi LHN&GĐ năm 2000 có hiệu lực thì cơ quan cóthẩm quyền vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về việc "công nhận của bên kia".Ngoài các quy định về tài sản riêng của vợ, chồng tại Điều 30 của LHN&GĐ năm 2000, thì luật này cũng không có quy định nào về việc chứng minh tàisản riêng bằng sự “công nhận của bên kia”.
Việc yêu cầu công chứng thỏa thuận về tài sản riêng của vợ, chồng về bản chất chỉ là sự khẳng định quyền sở hữu riêng của vợ, chồng đối với tài sản, không làm thay đổi quan hệ sở hữu của vợ, chồng. Tuy nhiên, khi phát sinh tranh chấp, văn bản công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng sẽ "có giá trị chứng cứ" trong việc giải quyết quyền và lợi ích của các bên. Vì
Formatted: Vietnamese (Vietnam)
Formatted: Vietnamese (Vietnam) Formatted: Vietnamese (Vietnam) Formatted: Vietnamese (Vietnam)
Có thể bạn quan tâm!
- Yêu Cầu Đối Với Văn Bản Công Chứng Thỏa Thuận Về Tài Sản Của Vợ Chồng
- Các Trường Hợp Phát Sinh Yêu Cầu Công Chứng Thỏa Thuận Về Tài Sản Của Vợ Chồng
- Yêu Cầu Công Chứng Theo Ý Chí Tự Nguyện Của Vợ Chồng
- Công Chứng Thỏa Thuận Chia Tài Sản Chung Sau Khi Ly Hôn
- Thỏa Thuận Khôi Phục Chế Độ Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Trong Thời Kỳ Hôn Nhân
- Công Chứng Thỏa Thuận Ủy Quyền Giữa Vợ Và Chồng
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
vậy, công chứng thỏa thuận về tài sản riêng của vợ chồng là cần thiết, nó giúp bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản của mình, hạn chế các tranh chấp có thể phát sinh.
Trở lại tình huống trên, việc thừa nhận của một bên, liệu có đảm bảo được quyền và lợi ích của bên thứ ba có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng hoặc nghĩa vụ về tài sản của ông Sahar? Theo quan điểm của chúng tôi, việc thừa nhận của ông Sahar chỉ là một trong các căn cứ để xác định quyền sở hữu của bà Trang đối với tài sản, CCV cần căn cứ vào các quy định của pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản riêng của vợ chồng để giải quyết yêu cầu công chứng thỏa thuận tài sản riêng của vợ chồng. Ở tình huống này, ngoài việc thừa nhận của ông Sahar,,CCV nên yêu cầu bà Trang bổ sung thêm Hợp đồng mua bán căn hộ và giấy nộp tiền để chứng minh số tiền mua căn hộ là tiền của bà có được trước khi kết hôn với ông Sahar. Có như vậy, mới đảm bảo được "tính xác thực", "tính hợp pháp" của thỏa thuận về tài sản của vợ chồng.
- Năm 2009, ông Nguyễn Hữu Minh Hoàng cùng vợ là bà Ngô Thanh Hà yêu cầu CCV công chứng thỏa thuận tài sản riêng của bà Hà. Theo trình bày của bà Hà: trong thời kỳ hôn nhân, ông Hoàng và bà Hà có thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng. Sau khi chia tài sản, bà Hà đầu tư mua được một số bất động sản. Để thuận lợi cho việc chuyển nhượng các bất động sản này, bà Hà và ông Hoàng yêu cầu công chứng thỏa thuận toàn bộ bất động sản mà bà có được sau khi chia tài sản chung với ông Hoàng là tài sản riêng của bà Hà.
Khi xem xét văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của ông Hoàng và bà Hà, CCV thấy rằng, ông Hoàng và bà Hà chỉ thỏa thuận chia quyền sử dụng đất ở (bà Hà được chia quyền sử dụng đất), các bên không có thỏa thuận khác về tài sản. Toàn bộ bất động sản màông Hoàng và bà Hàthỏa thuận là tài sản riêng của bà Hà được bà Hà xác lập
Formatted: Vietnamese (Vietnam)
Formatted: Vietnamese (Vietnam) Formatted: Vietnamese (Vietnam)
sau khi ông Hoàng và bà Hà thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hônnhân vàđều ghi tên bà Hà. và được cấp giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng,quyền sở hữu sau thời điểm chia tài sản chung giữa ông Hoàng và bà Hà.Theo quy định tại Điều 8 của Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình thì các bất động sản mà bà Hà có được là tài sản riêng của bà Hà. Như vậy, CCV có cơ sở tiếp nhận và thực hiện công chứng thỏa thuận về tài sản riêng giữa ông Hoàng và bà Hà.
2.2.3. Công chứng thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 18 của LHN&GĐ 1986: "Khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật này" [44]. Như vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được ghi nhận là trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng có điều kiện. Theo Điểm b, Mục 3 của Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật hôn nhân và gia đình thì trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng được chia tài sản chung "nếu có lý do chính đáng (như: vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn nên không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng, do đó, một bên hoặc cả hai bên xin chia tài sản thì tài sản được chia như khi xử về ly hôn)" [57].
Kế thừa quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân từ LHN&GĐ năm 1986, Điều 29 của LHN&GĐ năm 2000 quy định:
Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung;
Formatted: Vietnamese (Vietnam)
việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết [46].
LHN&GĐ năm 2000 cho phép vợ chồng có thể thỏa thuận chia toàn bộ hoặc một phần tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Về phía các bên vợ chồng, yêu cầu chia toàn bộ tài sản chung chỉ đặt ra trong những hoàn cảnh đặc biệt như phải thực hiện nghĩa vụ tài sản quá lớn mà nếu chia một phần tài sản chung thì không đủ hoặc một bên có yêu cầu chia khi bên kia có hành vi phá tán tài sản, nghiện hút, cờ bạc… [39, tr. 23].
Việc quy định chia một phần tài sản chung có ý nghĩa thiết thực, phù hợp với thực tiễn đời sống chung của vợ chồng, khi vợ, chồng chỉ cần một lượng tài sản nhất định là đủ thực hiện nghĩa vụ riêng hoặc đầu tư kinh doanh riêng, đồng thời vẫn còn tài sản chung để đảm bảo các nhu cầu của gia đình. "Việc chia một phần tài sản chung khác với chia toàn bộ tài sản chung ở chỗ nó không gây ra những ảnh hưởng lớn đến đời sống chung của gia đình, không làm mất ổn định cuộc sống chung" [39, tr. 23]. LHN&GĐ năm 2000 còn dự liệu về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, khi quy định: "Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng" [46, Điều 30]. Đây là điểm mới của LHN&GĐ năm 2000 so với LHN&GĐ 1986, quy định này được hướng dẫn chi tiết tại Điều 8 của Nghị định số 70/2001/NĐ-CP.
Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân quy định phải được lập thành văn bản và ghi rõ các nội dung sau đây: Lý do chia tài sản, phần tài sản chia (bao gồm bất động sản, động sản, các quyền tài sản); trong đó cần mô tả rõ những tài sản được chia hoặc giá trị phần tài sản
được chia; phần tài sản còn lại không chia (nếu có); thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung; các nội dung khác (nếu có).
Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả vợ và chồng; văn bản thỏa thuận có thể có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật [18, Điều 6].
Thỏa thuận về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có đối tượng là tài sản chung của vợ chồng. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là trường hợp chia tài sản có điều kiện, vì vậy, bên cạnh việc xác định chính xác quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung, CCV cần xác định "lý do" chia tài sản chung của vợ chồngđể đảm bảo giá trị pháp lý của văn bản công chứng cũng như quyền và lợi ích của vợ chồng và các con trong gia đình.
Việc công chứng thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nếu được thực hiện vì lợi ích của chung của vợ chồng và gia đình có thể thúc đẩy kinh tế gia đình phát triển, hạn chế các rủi ro về tài chính cho gia đình. Ngược lại, nếu việc công chứng thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đểnhằmthực hiện mục đích tư lợi của một bên vợ hoặc chồng, có thể xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của bên vợ, chồng còn lại cũng như các thành viên trong gia đình. Vì vậy, việc xác định ý chí thật của các bên có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng.
Hậu quả của việc chia tài sản cung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể dẫn tới việc chấm dứt quyền sở hữu của một bên vợ, chồng đối với tài sản. Chính vì vậy, vợ, chồng có thể lợi dụng thỏa thuận chia tài sản chung nhằm chuyển giao tài sản cho vợ, chồng còn lại để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp này, việc thỏa thuận chia tài sản chung
Formatted: Vietnamese (Vietnam)
Formatted: Vietnamese (Vietnam)
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ không được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, khi phát hiện yêu cầu công chứng chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ về tài sản của một bên vợ, chồng, CCV phải từ chối yêu cầu công chứng thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng. Trong trường hợp này, việc xác định rõ mục đích chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đã phát hiện và ngăn chặn hành vi trốn tránh nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng đối với người khác.
Trên thực tế, CCV khó có thể phát hiện việc chia tài sản của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ khi họ đã cố tình có chủ ý như vậy. Trong trường hợp này, CCV chỉ có thể yêu cầu người yêu cầu công chứng cam kết việc thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà thôi.
Để thấylàm rõ hơn việc áp dụng pháp luật để giải quyết các yêu cầu công chứng thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tác giả đưa ra và phân tích một số tình huống công chứng thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể gặp trong thực tiễn dưới đây:
- Năm 2000,Ôông H kết hôn vớivàbà P đăng ký kết hôn tại cơ quancó thẩm quyền.năm 200 Đến n0, đến năm 2009 thì ly hôn, khi ly hôn, ông Hvà bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng.Năm 2007, trong thời kỳ hôn nhân với bà P,ông H ký hợp đồng mua căn hộ chung cư P 501 với một chủ đầu tư tại một dự án nhà ở thương mạivới chủđầu tư. Năm 2009, ông H ly hôn với bà P. Đ, đến thời điểm ly hôn với bà P ông H mới trả được 60% tiền mua nhà (thanh toán tiền theo tiến độ xây nhà của dDự án). Năm 2010, ông H kết hôn với bà L, trong thời gian này, ông H và bà L thanh toán nốt 40 % tiền mua nhà còn lại. Năm 2011, ông H được bàn giao nhà và cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Năm 2012, ông H và bà
Formatted: Vietnamese (Vietnam)
Formatted: Vietnamese (Vietnam) Formatted: Vietnamese (Vietnam) Formatted: Vietnamese (Vietnam) Formatted: Vietnamese (Vietnam) Formatted: Vietnamese (Vietnam)
Formatted: Vietnamese (Vietnam) Formatted: Vietnamese (Vietnam)
Formatted: Vietnamese (Vietnam)
L yêu cầu CCV công chứng thỏa thuận chia tài sản chung là căn hộ chung cư P501.
Ở tình huống này, tài sản được mua từ thời kỳ hôn nhân giữa ông H và bà P, nhưng phải đến thời kỳ hôn nhân giữa ông H và bà L thì tài sản này với được hình thành (nhận bàn giao). Trường hợp này, quyền sở hữu căn hộ chung cư được xác định như thế nào?
Theo quan điểm của chúng tôi, tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân bao gồm: tài sản đã hình thành hoặc tài sản sẽ được hình thành trong tương lai (nhà ở, công trình xây dựng…). Do vậy, trường hợp nêu trên, mặc dù tài sản này được hình thành trong thời thời kỳ hôn nhân của ông H và bà L nhưng trong thời kỳ hôn nhân với của ông H và bà P giao dịch này đã được thiết lập (căn hộ là tài sản hình thành trong tương lai từ tiền chung củaông H và bà P). Vì vậy, căn hộ nêu trên phải được xác định là tài sản chung của ông H, bà P và bà L. Do vậy, việc thỏa thuận chia căn hộ của ông H và bà L phải có sự đồng ý của đồng sở hữu còn lại là bà P. Tuy nhiênrường hợp, bà P không đồng ý việc chia tài sản nêu trên thì CCV phải từ chối yêu cầu công chứng của ông H và bà L.
- Năm 2011, CCV nhận được hồ sơ yêu cầu công chứng thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của ông Nguyễn Văn Khanh và vợ là bà Nguyễn Thị Ánh. Tài sản thỏa thuận chia là quyền sử dụng đất tại thành phố Hà Nội.
Khi kiểm tra hồ sơ, CCV xác định hồ sơ đã đầy đủ và thực hiện yêu cầu công chứng. Tuy nhiên, văn bản công chứng không thấy ghi nhận "lý do" yêu cầu công chứng.
Theo quy định Khoản 1, Điều 29 của LHN&GĐ năm 2000 thì thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là trường hợp thỏa thuận có điều kiện, tức là phải có "lý do". Do vậy, CCV chỉ được công chứng thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nếu
Formatted: Vietnamese (Vietnam)
Formatted: Vietnamese (Vietnam)
vợ, chồng có "lý do" chính đáng và phù hợp với quy định của pháp luật. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 6 của Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì thỏa thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân phải được lập thành văn bản và ghi rõ các nội dung: "Lý do chia tài sản". Như vậy, lý do chia tài sản là một trong các nội dung bắt buộc trong văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Việc CCV không ghi nhận lý do chia tài sản trong văn bản công chứng thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân rõ ràng đã không thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật. Ở tình huống này, sau khi công chứng, bà Ánh yêu cầu CCV hủy văn bản công chứng với lý do ông Khanh lừa tôibà Ánhchia tài sản để sống vớinhân tình để tư lợi, văn bản công chứng không ghi lý do là vi phạm pháp luật. Nếu ông Khanh không đồng ý hủy văn bản đã công chứng thì bà Ánh chỉ còn cách yêu cầu Tòa án có thẩm quyền tuyên hủy văn bản công chứng và yêu cầu CCV phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
- Theo trình bày của người yêu cầu công chứng: năm 2010, ông Thư và bà Hiền thế chấp quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng tại Ngân hàng. Nay, ông Thư và bà Hiền có nhu cầu chia tài sản chung của vợ chồng như sau:
+ Ông Thư đồng ý chia cho bà Hiền toàn bộ quyền sử dụng thửa đất thuộc quyền sử dụng của hai vợ chồng đang thế chấp tại Ngân hàng. Ông Thư sẽ không có quyền lợi, hay nghĩa vụ gì liên quan đến quyền sử dụng đất sau khi thỏa thuận chia tài sản chung.
+ Bà Hiền sẽ thanh toán cho ông Thư phần giá trị quyền sử dụng đất là 1,5 tỷ đồng. Sau khi chia tài sản, bà Hiền được một mình thực hiện các thủ tục đăng ký xóa thế chấp tại cơ quan có thẩm quyền, sau khi được cơ quan có thẩm quyền xóa đăng ký thế chấp, bà Hiền được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng riêng đối với toàn bộ quyền sử dụng đất nêu trên, được toàn quyền quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản đó.
Formatted: Vietnamese (Vietnam) Formatted: Vietnamese (Vietnam)