Các Trường Hợp Phát Sinh Yêu Cầu Công Chứng Thỏa Thuận Về Tài Sản Của Vợ Chồng


Văn bản công chứng có sự chứng kiến, xác nhận của CCV, được thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật, được lưu giữ tại cơ quan công chứng trong thời hạn ít nhất hai mươi năm. Đây sẽ là căn cứ pháp lý để vợ, chồng, người thứ ba có hành động tôn trọng các giao dịch do vợ chồng thiết lập, hạn chế những tranh chấp, xung đột về quyền và lợi ích có thể xảy ra liên quan đến việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của vợ chồng. Vì vậy, công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng, giữa vợ chồng và người thứ ba có quyền lợi liên quan đến tài sản của vợ chồng trong hiện tại và cả tương lai.

- Văn bản công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng có giá trị chứng cứ.

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 83 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2005, các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Khi tranh chấp xảy ra, tùy từng trường hợp mà bị đơn hoặc nguyên đơn phải xuất trình chứng cứ theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. "Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu" [55, Điều 6]. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng đương nhiên được thừa nhận là chứng cứ và không phải chứng minh, nó chỉ không có giá trị chứng cứ nếu bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.

Để tăng cường vai trò và trách nhiệm của cơ quan công chứng trong việc giải quyết quyền và lợi ích của các bên có liên quan:

Trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu bằng văn bản về việc cung cấp hồ sơ công chứng phục vụ cho việc


giám sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án liên quan đến việc đã công chứng thì tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm cung cấp bản sao văn bản công chứng và các giấy tờ khác có liên quan. Việc đối chiếu bản sao văn bản công chứng với bản chính chỉ được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng nơi đang lưu trữ hồ sơ công chứng [55, Điều 54].

- Văn bản công chứng trong một số trường hợp là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền thực hiện các thủ tục đăng ký quyền sử dụng, sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật.

Để quản lý các giao dịch đối với một số tài sản đặc biệt, pháp luật quy định việc xác lập các giao dịch với các loại tài sản này phải được công chứng như các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô, xe gắn máy…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

Đối với các trường hợp, hợp đồng, giao dịch phải công chứng theo quy định của pháp luật thì văn bản công chứng là điều kiện để cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản của vợ chồng. Theo quy định tại Khoản 4, Điều 49 của LCC: "Văn bản thỏa thuận phân chia di sản đã được công chứng là một trong các căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản cho người được hưởng di sản" [55]. Đối với việc bán, tặng cho xe ô tô, xe gắn máy… để thực hiện thủ tục chuyển nhượng xe thì "giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân phải có chứng thực hoặc công chứng theo quy định của pháp luật" [4, Điều 1]. Trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất thì "văn bản cam kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất hoặc chứng nhận của công chứng nhà nước" [48, Điều 129].


Những khía cạnh pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận tài sản của vợ chồng - 6

Như vậy, trong nhiều trường hợp, văn bản công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền thực hiện các thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật.

- Văn bản công chứng là căn cứ xác nhận sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi quyền sở hữu, sử dụng của vợ chồng đối với tài sản.

Một trong các căn cứ xác lập quyền sở hữu cho cá nhân là "được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận" [49, Điều 170]. Do vậy, thỏa thuận về tài sản của vợ chồng có thể làm phát sinh hoặc làm thay đổi quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản khi thỏa thuận có hiệu lực theo quy định của pháp luật.

Trong một số trường hợp, văn bản công chứng là căn cứ để xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản, cụ thể: theo quy định tại Khoản 5 Điều 93 của Luật Nhà ở năm 2005 thời điểm hợp đồng được công chứng cũng chính là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu nhà ở cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên nhận đổi nhà ở: "Quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng đối với giao dịch về nhà ở giữa cá nhân với cá nhân" [51]. Còn theo quy định tại Khoản 3 Điều 64 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở: thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở đối với trường hợp đổi nhà ở được tính từ ngày hợp đồng đổi nhà ở được công chứng hoặc chứng thực.

- Việc công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng giúp bảo vệ quyền và lợi ích của vợ chồng.

Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng là một trong các hành vi thực hiện quyền của chủ sở hữu tài sản. Hoạt động này giúp vợ chồng chủ động dành một phần tài sản nhất định để sản xuất, kinh doanh, thực hiện các nghĩa vụ riêng mà không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của vợ, chồng và


của gia đình. Vợ, chồng cũng có thể thỏa thuận nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng nhằm làm gia tăng cho khối tài sản chung, đáp ứng được các lợi ích vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình. Việc thỏa thuận về tài sản của vợ chồng nhằm mang lại lợi ích cho vợ, chồng và các thành viên trong gia đình vì vậy, cần phải được khuyến khích. Tuy nhiên, với sự hạn chế về kiến thức pháp luật, việc thỏa thuận về tài sản của vợ chồng có thể không đảm bảo các điều kiện theo quy định của pháp luật, thậm chí trái pháp luật, dẫn đến văn bản thỏa thuận về tài sản không có giá trị thực hiện. Trong quá trình công chứng, bằng kiến thức và kinh nghiệm cùng các kỹ năng hành nghề công chứng, CCV sẽ tư vấn, hướng dẫn và giải đáp các thắc mắc của vợ chồng liên quan đến các quyền và lợi ích của mìnhvợ chồngđối với tài sản thỏa thuận, đảm bảo việc thỏa thuận thể hiện đúng ý chí của vợ, chồng, phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo giá trị pháp lý của văn bản thỏa thuận, đồng thời phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi trái pháp luật, nhằm mục đích trục lợi của một bên. Vì vậy, công chứng thỏa thuận về tài sản của vợchồng không chỉ là biện pháp để nhà nước kiểm soát các giao dịch, hợp đồng trong xã hội mà quan trọng nó góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của vợ, chồng và những người có liên quan đến việc thỏa thuận về tài sản của vợ chồng.

- Trong trường hợp phát sinh tranh chấp, văn bản công chứng là căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp.

Trong thời kỳ hôn nhân, ngoài tài sản chung, vợ, chồng còn có quyền sở hữu đối với tài sản riêng. Tuy nhiên, khi cuộc sống còn hạnh phúc, các tài sản riêng của vợ chồng có thể được dùng chung để đáp ứng các nhu cầu của gia đình. Qua nhiều năm chung sống, các tài sản chung, tài sản riêng trở nên khó phân định, vì vậy, khi có tranh chấp, việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu trở nên khó khăn, trong nhiều trường hợp, chủ sở hữu phải chịu thiệt thòi. "Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong


Formatted: Vietnamese (Vietnam)


Formatted: Vietnamese (Vietnam)


trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác" [55, Điều 6]. Trường hợp, vợ, chồng không tự giải quyết được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, khi đó "văn bản công chứng có giá trị chứng cứ" [55, Điều 6], là cơ sở để xác định quyền và lợi ích của vợ, chồng phát sinh từ thỏa thuận, từ đó, bảo vệ quyền và lợi ích của vợ, chồng. Ví dụ: bà A và ông B thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Theo đó, ông AB được nhận nhà và phải thanh toán cho bà A một tỷ đồng. Tuy nhiên, sau khi chia tài sản chung, ông B đăng ký sang quyền sở hữu nhà ghi tên một mình ông nhưng không thanh toán tiền cho bà A. Trường hợp này, căn cứ vào văn bản công chứng chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, bà A có quyền yêu cầu ông B thanh toán tiền cho mình hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.


Formatted: Vietnamese (Vietnam)


Chương 2

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT YÊU CẦU CÔNG CHỨNG CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG‌

TẠI CƠ QUAN CÔNG CHỨNG


2.1. CÁC TRƯỜNG HỢP PHÁT SINH YÊU CẦU CÔNG CHỨNG THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG

2.1.1. Yêu cầu công chứng theo quy định của pháp luật

Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng thể hiện ý chí tự nguyện của vợ chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Tuy nhiên, đối với một số tài sản đặc biệt, cần sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, pháp luật quy định việc xác lập các giao dịch liên quan đến các loại tài sản này bắt buộc phải công chứng.

Theo quy định tại Khoản 2, Điều 401 của BLDS năm 2005: "Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó" [49]. Như vậy, trong một số trường hợp, văn bản có công chứng là hình thức bắt buộc của hợp đồng, giao dịch. Trường hợp, hợp đồng, giao dịch không tuân thủ điều kiện về mặt hình thức này thì có thể bị Tòa án tuyên vô hiệu theo quy định của pháp luật.

Đất đai là tài sản thuộc sở hữu của toàn dân, do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Để thực hiện vai trò đại diện cho chủ sở hữu, nhà nước quy định cơ chế giám sát các hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất để đảm bảo việc thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo đúng định hướng của nhà nước.

Hợp đồng hoặc giấy tờ khi người sử dụng đất thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng


cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn [19, Điều 119].

Thỏa thuận về quyền sử dụng đất của vợ chồng có thể làm thay đổi chủ thể sử dụng đất và thay đổi hình thức sử dụng đất từ sử dụng riêng sang sử dụng chung và ngược lại. c tha thun về quyn sử dụng đất của vợ chồng cũng rất đa dạng như thỏa thuận nhập quyền sử dụng đất là tài sảnriêng của một bên vợ, chồng vào khối tài sản chung của vợ chồng, thỏa thuậnchia quyền sử dụng đất trong thời kỳ hôn nhân, thỏa thuận ủy quyền về quyềnsử dụng đất, thỏa thuận tặng cho quyền sử dụng đất giữa hai vợ chồng…Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2003 lại chưa dự liệu hết các trường hợp thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, do vậy một số trường hợp thỏa thuận về tài sản của vợ chồng chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể.

Theo chúng tôi, pháp luật đất đai cần quy định bổ sung quyền củangười sử dụng đất đối với các trường hợp thỏa thuận về tài sản của vợ chồngvà quy định trình tự, thủ tục thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụngđất trong trường hợp này để tạo nên tính thống nhất trong quản lý nhà nướcvề đất đai.

Theo quy định của pháp luật, hợp đồng, giao dịch liên quan đến một số tài sản đặc thù như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, ô tô, xe máy… phải thực hiện việc công chứng. Việc công chứng trong những trường hợp này trở thành điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, giao dịch.

Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu [49, Điều 134].


Formatted: Vietnamese (Vietnam)


Formatted: Vietnamese (Vietnam)


Formatted: Vietnamese (Vietnam)


Như vậy, khi vợ chồng thỏa thuận xác lập, chấm dứt hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định công chứng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, giao dịch thì việc xác lập, chấm dứt các giao dịch này phải được công chứng theo quy định để đảm bảo giá trị pháp lý và hiệu lực của hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật theo quy định của pháp luật.

Theo Điểm 3.1.7, Khoản 3, Điều 7 của Thông tư số 36/2010/TT-BCA ngày 12/10/2010 của Bộ Công an quy định về việc cấp, đổi, thu hồi đăng ký, biển số các loại xe cơ giới bao gồm ô tô, máy kéo, rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe có kết cấu tương tự quy định: "Giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân phải có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với chữ ký của người bán, cho, tặng hoặc có xác nhận của cơ quan, đơn vị công tác" [3]. Quy định này được sửa đổi, bổ sung tại Điều 1 của Thông tư số 75/2011/TT-BCA ngày 17/11/2011 của Bộ Công an về sửa đổi, bổ sung Điểm 3.1.7 Khoản 3 Điều 7 Thông tư số 36/2010/TT-BCA ngày 12/10/2010 quy định về đăng ký xe: "Giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân phải có chứng thực hoặc công chứng theo quy định của pháp luật" [4].

Các hình thức giao dịch về nhà ở theo quy định tại Luật Nhà ở năm 2005 gồm: "các hình thức mua bán, cho thuê, thuê mua, tặng cho, đổi, thừa kế, thế chấp, cho mượn, cho ở nhờ và ủy quyền quản lý nhà ở" [51, Điều 90]. Hợp đồng về nhà ở phải có chứng nhận của công chứng trừ các trường hợp sau đây: "cá nhân cho thuê nhà ở dưới sáu tháng"; "bên bán, bên cho thuê nhà ở là tổ chức có chức năng kinh doanh nhà ở"; "thuê mua nhà ở xã hội" và "bên tặng cho nhà ở là tổ chức" [51, Điều 93].

- Công chứng thỏa thuận sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng:

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 44 của LCC: "Việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự


Formatted: Vietnamese (Vietnam)

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 02/01/2024