Mối Quan Hệ Giữa Các Quy Định Về Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Vợ Chồng Và Việc Công Chứng Các Thỏa Thuận Về Tài Sản Của Vợ Chồng


quản lý hộ tài sản của nhau chứ không có quyền xác lập quyền sở hữu hay định đoạt tài sản riêng của bên kia (nếu không được vợ hoặc chồng ủy quyền).

Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng phát sinh từ những mục đích cá nhân của một bên mà không vì lợi ích chung của gia đình như bồi thường thiệt hại do hành vi vi pháp luật gây ra, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con riêng… thì vợ, chồng phải dùng tài sản riêng của mình để thực hiện. Quy định này nhằm mục đích bảo toàn cho khối tài sản chung của vợ chồng, không làm ảnh hưởng đến lợi ích của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình.

Như vậy, về nguyên tắc, vợ, chồng với tư cách là các chủ sở hữu độc lập đối với tài sản riêng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản riêng của mình không phụ thuộc vào ý chí của người khác, kể cả vợ hoặc chồng của mình. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của quan hệ hôn nhân và gia đình, quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng trong một số trường hợp có thể bị hạn chế nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của gia đình. Khi tài sản chung của vợ chồng có thể đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của gia đình thì quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng sẽ không bị hạn chế, khi đó vợ, chồng có toàn quyền định đoạt tài sản theo hình thức phù hợp với quy định của pháp luật mà không cần sự đồng ý của bên còn lại.

1.1.2. Mối quan hệ giữa các quy định về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng và việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng

- Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là một chế định trong pháp luật về hôn nhân và gia đình được xây dựng từ các điều kiện kinh tế - xã hội và truyền thống của gia đình Việt Nam. Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng, đồng thời quy định các biện pháp để bảo đảm cho các quyền của vợ, chồng được thực hiện. Một trong các


công cụ để nhà nước giám sát, kiểm soát các hợp đồng, giao dịch trên thực tế chính là các quy định về công chứng. LCC ra đời là một công cụ để hỗ trợ nhà nước kiểm soát việc thực hiện pháp luật liên quan đến tài sản của vợ chồng trong điều kiện phát triển không ngừng của các quan hệ xã hội, nhất là đối với các thỏa thuận liên quan đến tài sản có chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở…

- Trong thời kỳ hôn nhân, ngoài tài sản thuộc sở hữu chung, vợ, chồng còn có thể sở hữu riêng đối với tài sản. Trong khi đó, khối tài sản lại đa dạng, nhiều chủng loại, mỗi loại tài sản lại có quy định đặc thù riêng, được quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Mặt khác, xuất phát từ đặc thù của quan hệ hôn nhân và gia đình mà việc thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản chung và đối với tài sản riêng lại có những điểm đặc biệt mà không có ở các hình thức sở hữu khác. Vì vậy, việc thỏa thuận về tài sản của vợ chồng có thể không phù hợp với quy định của pháp luật, không đảm bảo quyền và lợi ích của vợ chồng và dễ nảy sinh tranh chấp. Công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng sẽ đảm bảo việc thực hiện quyền của chủ sở hữu phù hợp với của quy định của pháp luật, hạn chế các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng.

- Để thực hiện công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng thì CCV phải căn cứ vào các quy định có liên quan đến tài sản và quyền của sở hữu tài sản của vợ chồng để xác định việc thỏa thuận tài sản của vợ chồng có phù hợp với quy định của pháp luật hay không. Vì vậy, quy định về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là căn cứ pháp lý để CCV tiếp nhận, giải quyết hoặc từ chối các yêu cầu công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

- Quy định về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là cơ sở pháp lý để CCV xây dựng văn bản công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng phù hợp với quy định của pháp luật. Việc sử dụng, định đoạt tài sản của vợ chồng được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như thỏa thuận chia tài sản


Những khía cạnh pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận tài sản của vợ chồng - 4

chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thỏa thuận nhập tài sản riêng của một bên vợ, chồng vào khối tài sản chung của vợ chồng, thỏa thuận chia tài sản chung của "vợ chồng" sau khi ly hôn, thỏa thuận đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thỏa thuận đổi tài sản, cho thuê tài sản giữa vợ và chồng… Căn cứ vào các quy định của pháp luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản của vợ, chồng, CCV tư vấn, hướng dẫn cho vợ chồng tự soạn thảo hoặc giúp vợ chồng soạn thảo văn bản công chứng thỏa thuận về tài sản phù hợp với nội dung và hình thức theo quy định của pháp luật.‌

1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CÔNG CHỨNG THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG

1.2.1. Khái niệm thỏa thuận về tài sản của vợ chồng

Tài sản của vợ chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng (nếu có), vì vậy, đối tượng tài sản được vợ chồng thỏa thuận có thể là tài sản chung hoặc tài sản riêng. Dù là tài sản riêng hay tài sản chung, vợ chồng đều có thể thỏa thuận về việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó theo phương thức phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với tài sản riêng, vợ chồng có thể thỏa thuận tặng cho tài sản, thỏa thỏa thuận ủy quyền quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản, thỏa thuận cho thuê, trao đổi tài sản giữa vợ và chồng... Đối với tài sản thuộc sở hữu chung, vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thỏa thuận tặng cho tài sản, thỏa thuận ghi tên một người trên giấy chứng nhận tài sản…

Theo Đại từ điển tiếng Việt, "thỏa thuận: là sự nhất trí, đồng ý với nhau sau khi đã bàn bạc" [69, tr. 1516]. Từ giải thích nêu trên có thể thấy, thỏa thuận là sự thể hiện ý chí của các bên trên cơ sở tự nguyện để cùng nhau bàn bạc và đi đến kết luận cuối cùng về một vấn đề nào đó.


Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình. Vì vậy, việc thỏa thuận về tài sản bao gồm cả việc thỏa thuận về quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản, tuy nhiên việc thỏa thuận này phải tuân theo các điều kiện và phương thức phù hợp với quy định của pháp luật. Như vậy, thỏa thuận về tài sản của vợ chồng được hiểu là sự thống nhất ý chí của vợ chồng sau khi đã trao đổi, bàn bạc trên cơ sở tự nguyện để đi đến quyết định cuối cùng trong việc thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản phù hợp với quy định của pháp luật.

Chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản là hành vi của chủ sở hữu trong việc nắm giữ, quản lý, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu tài sản. Tuy nhiên, việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản phải phù hợp với quy định của pháp luật, đây cũng là một trong các căn cứ để CCV xem xét thực hiện công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng khi có yêu cầu.

Có thể thấy rằng, hiện nay các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng được công chứng thường liên quan đến các hợp đồng, giao dịch bắt buộc phải công chứng theo quy định của pháp luật. Các hợp đồng, giao dịch này có đối tượng là các tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc tài sản nằm trong diện kiểm soát đặc biệt của nhà nước như đất đai, nhà ở... Trong trường hợp này, việc công chứng cũng chỉ là hình thức của hợp đồng, giao dịch, không ảnh hưởng đến ý chí đích thực của vợ chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.

Ngoài các trường hợp pháp luật quy định hợp đồng, giao dịch của vợ chồng bắt buộc phải công chứng thì vợ chồng có quyền thỏa thuận về việc có công chứng thỏa thuận của mình hay không. Việc công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong trường hợp này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của vợ chồng.


1.2.2. Khái niệm công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng

Công chứng là khái niệm đã có từ lâu trong lịch sử lập pháp của nước ta, mặc dù qua từng giai đoạn lịch sử, khái niệm công chứng được hiểu và gọi dưới các tên gọi khác nhau. Điều thứ hai của Sắc lệnh số 59 ngày 15/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định:

Các Ủy ban có quyền thị thực tất cả các giấy mà trong địa phương mình, bất kỳ người đương sự làm giấy má ấy thuộc về quốc tịch nào. Tuy nhiên, Ủy ban thị thực phải là Ủy ban ở trú quán một bên đương sự lập ước, và việc bất động sản phải là Ủy ban ở nơi sở tại bất động sản. Nếu có nhiều bất động sản ở nhiều nơi khác nhau, thì giấy tờ làm ra về những bất động sản ấy phải do Ủy ban mỗi nơi thị thực [13].

Theo quy định tại sắc lệnh này thì thị thực bao gồm hai việc là thị thực "giấy" và thị thực "lập ước". Đến năm 1952, Điều 3 của Sắc lệnh số 85/SL ngày 29/02/1952 của Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định: "Trước khi đem trước bạ, văn tự phải đưa Ủy ban kháng chiến hành chính xã hay thị xã nhận thực chữ ký của các người mua, bán, cho, nhận đổi và nhận thực những người bán, cho hay đổi là chủ những nhà cửa, ruộng đất đem bán, cho hay đổi" [14]. Theo Sắc lệnh số 85/SL thì khái niệm "nhận thực chữ ký" được áp dụng trong văn tự mua bán, cho và đổi nhà cửa, ruộng đất. Có thể nhận thấy "bóng dáng" của quy định về "công chứng" trong quy định về "thị thực" "nhận thực" tại các văn bản nêu trên, tuy nhiên, vấn đề về "thị thực" và "nhận thực" tại các Sắc lệnh nêu trên đều không phản ánh đúng bản chất của hoạt động "công chứng".

Công chứng nhà nước lần đầu tiên được đề cập tại Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công chứng nhà nước, theo đó công chứng được hiểu là một hoạt động của Nhà nước với mục đích giúp các công dân, cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện


có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Hoạt động công chứng ở Việt Nam chỉ chính thức ra đời năm 1991, sau khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 quy định về tổ chức hoạt động của công chứng nhà nước. Theo đó tại Điều 1 của Nghị định này quy định:

Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [36].

Tính tới thời điểm này, hoạt động công chứng vẫn được nhìn nhận dưới góc độ là hoạt động của cơ quan nhà nước, chưa có sự phân biệt giữa công chứng và chứng thực, theo đó CCV vẫn thực hiện: "chứng nhận chữ ký của người dịch giấy tờ, tài liệu" "chứng nhận bản sao giấy tờ, tài liệu tiếng Việt và tiếng nước ngoài" [36, Điều 15].

Đến năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước thay thế Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 của Hội đồng Bộ trưởng, khái niệm công chứng tại Điều 1 của Nghị định này về cơ bản không có thay đổi so với Nghị định số 45/HĐBT nêu trên khi quy định:

Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [15].

Tuy nhiên, Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước đã bắt đầu có sự phân biệt việc công


chứng theo chủ thể thực hiện, theo đó hoạt động của Ủy ban nhân dân (UBND) quận, huyện, thị xã đã được nhìn nhận là hoạt động "chứng thực", mặc dù hoạt động này vẫn nằm trong khái niệm "công chứng".

Như vậy, ngay từ buổi đầu thành lập, không có sự phân biệt rạch ròi giữa hoạt động "công chứng" và hoạt động "chứng thực". Cho đến khi Chính phủ ban hành Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước thì khái niệm "chứng thực" mới bắt đầu được đề cập đến.

Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh chứng thực các việc do pháp luật quy định và chứng thực bản sao giấy tờ từ bản chính, trừ các việc được quy định tại khoản 1, 2 Điều 18 của Nghị định này. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực việc từ chối nhận di sản, chứng thực di chúc và các việc khác do pháp luật quy định [15, Điều 19].

Hoạt động công chứng, chứng thực được phân biệt rõ ràng hơn khi Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực được ban hành, theo đó Điều 2 của Nghị định này quy định:

Công chứng là việc Phòng Công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này [17].

Còn chứng thực "là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này" [17, Điều 2].

Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã có sự phân biệt hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực nhưng sự phân biệt này chưa căn cứ vào bản


chất của hai hoạt động mà chỉ căn cứ vào chủ thể thực hiện, theo đó việc thực hiện tại Phòng Công chứng được gọi là "công chứng" và việc thực hiện tại UBND được gọi là "chứng thực". Vì vậy, nếu UBND có thực hiện chứng nhận hợp đồng, giao dịch liên quan đến động sản có giá trị dưới 50 triệu đồng thì vẫn được coi là "chứng thực". Điều này được phản ánh bởi quy định việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch thuộc thẩm quyền của cả Phòng công chứng và UBND tại Điều 21 và Điều 22 của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP.

Nghị định số 75/2000/NĐ-CP có nhiều quy định cụ thể về hoạt động công chứng và chứng thực, tuy nhiên, việc phân biệt hai hoạt động này vẫn chỉ dừng lại ở việc phân biệt dựa trên chủ thể thực hiện, chưa phân biệt dựa vào bản chất của hai hoạt động này.

Công chứng và chứng thực là hai hoạt động khác nhau hoàn toàn về bản chất. Bản chất của hoạt động công chứng là hoạt động mang tính dịch vụ pháp lý, đối tượng là các hợp đồng, giao dịch về dân sự, thương mại, kinh tế… Bản chất của chứng thực là hành vi mang tính chất thị thực của cơ quan hành chính nhà nước, đối tượng của chứng thực là các loại giấy tờ, tài liệu như chứng thực sao y bản chính chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu… Giữa hai hoạt động này hoàn toàn không có điểm chung, nó hoàn toàn khác nhau về bản chất. Từ những nhu cầu về mặt thực tiễn, cơ sở về mặt lý luận, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rõ:

Hoàn thiện chế định công chứng. Xác định rõ phạm vi công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này [33].

Như vậy, trước khi LCC ra đời, hoạt động công chứng đã từng bước được hoàn thiện, tuy nhiên các quy định trong thời gian này chưa quy định một cách toàn diện và phản ánh đúng bản chất của hoạt động công chứng. Do

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 02/01/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí