là tài sản chung hay tài sản riêng, CCV còn phải căn cứ vào nguồn gốc phát sinh tài sản của vợ chồng.
- Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh tài sản của vợ chồng.
Tài sản của vợ chồng có thể được hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau như từ hoạt động lao động của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, từ sự định đoạt hợp pháp của chủ sở hữu tài sản (tặng cho, thừa kế), từ sự thỏa thuận của vợ chồng hoặc từ nguồn gốc hợp pháp khác được pháp luật thừa nhận.
+ Hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh của vợ chồng là nguồn gốc tạo lập tài sản chủ yếu của vợ chồng. Tài sản được hình thành do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh có thể là tiền lương, phụ cấp, trợ cấp, tiền thưởng, lợi nhận từ đầu tư sản xuất kinh doanh, lợi tức thu được từ việc góp vốn, đầu tư chứng khoán...
Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm những tài sản do vợ chồng "tạo ra" trong thời kỳ hôn nhân. Những tài sản này do vợ chồng dùng tài sản do lao động, sản xuất kinh doanh và các nguồn tài sản hợp pháp khác để mua sắm, trao đổi như máy vi tính, ô tô, xe máy, ti vi, tủ lạnh…
+ Quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng có thể được xác lập do sự định đoạt của chủ sở hữu tài sản khi tặng cho hoặc để lại thừa kế cho cả hai vợ chồng. Trường hợp này, việc xác lập quyền sở hữu tài sản của vợ chồng trên cơ sở định đoạt hợp pháp tài sản từ người khác qua việc tặng cho tài sản hoặc được hưởng di sản do thừa kế theo di chúc.
Việc tặng cho tài sản có giá trị thường được thực hiện đối với những người có quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng như bố, mẹ, vợ, chồng, con, tuy nhiên, cũng không loại trừ những trường hợp khác. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể được hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Đối với trường hợp vợ chồng được hưởng
Có thể bạn quan tâm!
- Những khía cạnh pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận tài sản của vợ chồng - 1
- Những khía cạnh pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận tài sản của vợ chồng - 2
- Mối Quan Hệ Giữa Các Quy Định Về Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Vợ Chồng Và Việc Công Chứng Các Thỏa Thuận Về Tài Sản Của Vợ Chồng
- Yêu Cầu Đối Với Văn Bản Công Chứng Thỏa Thuận Về Tài Sản Của Vợ Chồng
- Các Trường Hợp Phát Sinh Yêu Cầu Công Chứng Thỏa Thuận Về Tài Sản Của Vợ Chồng
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
di sản theo di chúc mà di chúc để lại di sản cho cả hai vợ chồng, không phân định rõ phần di sản mà mỗi người được hưởng thì di sản đó là tài sản chung của hai vợ chồng.
+ Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung còn được xác lập trên cơ sở thỏa thuận của vợ chồng.
Trong thời kỳ hôn nhân, việc cùng nhau tạo lập tài sản, đóng góp tài sản để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của gia đình thể hiện trách nhiệm của vợ, chồng đối với các thành viên trong gia đình. Vì vậy, việc thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào khối tài sản chung để làm giàu cho khối tài sản chung của vợ chồng cần được khuyến khích.
Trên thực tế, có nhiều tài sản có nguồn gốc là tài sản riêng nhưng được vợ, chồng sử dụng cho gia đình, lâu dần không còn chứng cứ để xác định tài sản đó là tài sản riêng hay tài sản chung thì vợ chồng hoàn toàn có thể thỏa thuận để công nhận tài sản đó là tài sản chung. Xuất phát từ những lý do như vậy, nhằm đảm bảo sự cân bằng, hợp lý và bảo đảm lợi ích của gia đình cũng như các thành viên trong gia đình, pháp luật quy định "những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung" [46, Điều 27].
+ Quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng còn được xác lập dựa trên các căn cứ được pháp luật thừa nhận.
Những tài sản mà vợ chồng xác lập quyền sở hữu theo quy định của pháp luật do phát hiện vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu, tìm thấy vật bị chôn giấu, chìm đắm, vật do người khác đánh rơi, bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc… cũng là tài sản chung của hai vợ chồng. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 27 của LNH&GĐ năm 2000: "Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung" [46]. Đây là nguyên tắc suy đoán về tài sản chung của vợ chồng, lần đầu tiên được quy định trong
LNH&GĐ năm 2000, pháp luật về hôn nhân và gia đình trước đây chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.
Theo Điểm a, Khoản 3 của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm: "tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số, mà vợ, chồng có được" [58].
Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung.
Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản chung.
Sự phát triển của quan hệ hôn nhân và gia đình không chỉ dựa vào sự nỗ lực, cố gắng của một cá nhân, quan hệ này đòi hỏi sự nỗ lực, chung sức, chung lòng của vợ chồng và các thành viên trong gia đình, việc ỷ lại của một bên sẽ làm cho quan hệ hôn nhân và gia đình khó phát triển. Vì vậy, trách nhiệm tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người là trách nhiệm của vợ chồng. Bên cạnh các quyền hưởng thụ từ tài sản như chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thì vợ chồng phải có trách nhiệm cùng nhau tạo lập khối tài sản chung đó.
Đối với tài sản thuộc sở hữu chung, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tuy nhiên, về nguyên tắc, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ, chồng phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận và chỉ để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. Quy định này nhằm xác định nghĩa vụ chung của vợ, chồng đối với các giao dịch dân sự hợp pháp do một bên vợ hoặc chồng
thực hiện vì lợi ích chung của gia đình. Vợ, chồng có thể trực tiếp thực hiện các giao dịch hoặc ủy quyền cho vợ hoặc chồng đại diện cho mình thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Khoản 1, Điều 24 của LHN&GĐ năm 2000 quy định: "Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ chồng; việc ủy quyền phải được lập thành văn bản" [46, Điều 24].
Tài sản chung của vợ chồng là cơ sở đảm bảo cho gia đình tồn tại và phát triển, đảm bảo quyền và lợi ích của vợ chồng và các thành viên trong gia đình, đồng thời để thực hiện nghĩa vụ tài sản chung nhằm phục vụ cho nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình...
Thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản, vợ chồng có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối. Đối với việc định đoạt tài sản chung giữa vợ và chồng, vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thỏa thuận tặng cho tài sản giữa vợ và chồng, thỏa thuận chia tài sản chung của "vợ chồng" sau khi ly hôn, thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng…
1.1.1.2. Quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng
Vợ, chồng chỉ có quyền xác lập các giao dịch về tài sản nếu tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình… Do vậy, việc xác định quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm giá trị pháp lý của văn bản công chứng.
Căn cứ xác lập quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng cho các bên theo thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân, đồ dùng, tư trang cá nhân. Như vậy, có thể dựa vào các căn cứ các căn cứ sau đây để xác định quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản riêng:
- Căn cứ vào thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với tài sản.
Theo quy định tại Điều 58 của Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi bổ sung năm 2001: "Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác, đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18" [47]. Như vậy, trước khi kết hôn, với vai trò là chủ thể của các quan hệ xã hội, "vợ, chồng" có quyền sở hữu đối với thu nhập, của cải và tài sản khác được tạo lập hợp pháp theo quy định của pháp luật. Những tài sản này không phải do "vợ, chồng" tạo ra trong thời kỳ hôn nhân nên không chịu sự tác động bởi tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân và lợi ích chung của gia đình. Do vậy, những tài sản mà vợ chồng có được trước khi kết hôn thuộc quyền sở hữu riêng của vợ chồng ngay cả trong thời kỳ hôn nhân.
- Tài sản mà vợ hoặc chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân.
Việc định đoạt tài sản của chủ sở hữu cho một bên vợ hoặc chồng có thể thực hiện bằng việc tặng cho riêng một bên vợ, chồng hoặc để lại di sản thừa kế cho riêng vợ, chồng.
Chủ sở hữu có quyền định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của mình theo các hình thức được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, trong trường hợp, bằng ý chí của mình, chủ sở hữu tặng cho riêng tài sản cho một bên vợ, chồng thì tài sản đó tài sản riêng của vợ, chồng.
Trong trường hợp được hưởng di sản thừa kế, vợ, chồng có thể được hưởng di sản theo di chúc (định đoạt tài sản riêng cho một bên) hoặc được
Formatted: Vietnamese (Vietnam)
thừa kế theo pháp luật. Trong cả hai trường hợp này, vợ, chồng đều có quyền sở hữu riêng đối với di sản được thừa kế.
- Tài sản riêng được chia từ tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Theo quy định tại Điều 30 LHN&GĐ năm 2000: "Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng" [46]. Như vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng là một trong các căn cứ để xác định quyền sở hữu riêng của vợ, chồng đối với tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản đã chia cho ai thuộc quyền sở hữu riêng của bên đó. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng dẫn đến "hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác" [18, Điều 8]. Ngoài ra, "thu nhập do lao động, do hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng sau khi chia tài sản chung nếu không có thỏa thuận là tài sản riêng của vợ chồng" [18, Điều 8].
Như vậy, sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản chia cho ai thuộc quyền sở hữu riêng của bên đó, nếu không có thỏa thuận khác thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã chia, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp khác là tài sản riêng của vợ, chồng.
- Tài sản riêng của vợ chồng còn có đồ dùng, tư trang cá nhân.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 32 của LHN&GĐ năm 2000, tài sản riêng của vợ chồng còn bao gồm "đồ dùng, tư trang cá nhân". Đây là một quy định mới của LHN&GĐ năm 2000, quy định này là phù hợp với thực tiễn,
Formatted: Vietnamese (Vietnam)
nhằm bảo đảm quyền tự do cá nhân và cuộc sống riêng tư của vợ, chồng. Tuy nhiên, từ khi LHN&GĐ năm 2000 có hiệu lực đến nay, chưa có văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền giải thích cụ thể về "đồ dùng", tư trang cá nhân".
Theo Đại Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố Hồ Chính Minh do tác giả Nguyễn Như Ý là chủ biên, "đồ dùng" được giải thích là "vật để sử dụng trong sinh hoạt, hoạt động thường ngày, thường do con người tạo ra" [69, tr. 540]; "tư trang" được giải thích là "đồ trang sức của người con gái mang theo khi về nhà chồng" và "các thứ đồ đạc cần thiết mang theo của một cá nhân" [69, tr. 1704].
Trước đây, tại Điểm b, Mục 3, Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có quy định:
Đối với đồ trang sức mà người vợ người chồng được cha mẹ vợ hoặc chồng tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng, nhưng nếu những thứ đó được cho chung cả hai người với tính chất là tạo dựng cho vợ chồng một số vốn thì coi là tài sản chung. Khi chia tài sản chung, những trang sức có giá trị không lớn so với tài sản chung thì chia cho người đang sử dụng [57].
Tuy nhiên, Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP nêu trên cũng chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn về đồ trang sức, hiểu thế nào là "đồ dùng, tư trang cá nhân" thì vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể. Hiện nay, việc xác định đồ dùng, tư trang cá nhân là tài sản riêng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm thì cho rằng, "đồ dùng tư trang cá nhân dù mua sắm bằng tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng đều là tài sản riêng của vợ, chồng bất luận đồ dùng, tư trang cá nhân đó có giá trị hay không" [31, tr. 214]. Tuy nhiên, có quan điểm khác thì cho rằng "đồ dùng, tư trang cá nhân mà vợ, chồng có được từ tài sản riêng mới thuộc tài sản riêng của vợ, chồng" [31, tr. 214].
Cho đến nay, hiểu thế nào là đồ dùng, tư trang cá nhân vẫn chưa được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể, vì vậy, CCV sẽ gặp lúng túng trong
giải quyết yêu cầu công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng có liên quan đến những tài sản mà người yêu cầu công chứng cho rằng là "đồ dùng, tư trang cá nhân".
Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng.
Với tư cách là chủ sở hữu tài sản, vợ, chồng có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng thuộc quyền sở hữu của mình, không phụ thuộc vào ý chí của bên kia. Tuy nhiên, "trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ chồng" [46, Điều 33]. Đây là quy định mới của LHN&GĐ năm 2000, quy định hoàn toàn phù hợp với đặc thù của quan hệ hôn nhân và gia đình, bởi lẽ vợ, chồng đều phải có trách nhiệm bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của gia đình, khi gia đình gặp khó khăn thì vợ chồng phải nỗ lực hết sức có thể, kể cả dùng tài sản riêng để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của gia đình. Nhằm nâng cao trách nhiệm của vợ, chồng trong việc đảm bảo các các nhu cầu thiết yếu của gia đình, Điều 25 của LHN&GĐ năm 2000 quy định: "Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình" [46].
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 32 của LHN&GĐ năm 2000: "Vợ, chồng còn có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung" [46]. Việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng phục thuộc vào ý chí của chủ sở hữu tài sản, do vậy, vợ, chồng bằng ý chí của mình có thể nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi nhập tài sản riêng vàoới khối tài sản chung, tài sản thỏa thuận nhập trở thành tài sản chung của vợ chồng. Việc định đoạt tài sản này phải được sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
Vợ, chồng tự quản lý tài sản riêng của mình hoặc có thể ủy quyền cho vợ, chồng của mình quản lý. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng vợ, chồng chỉ được
Formatted: Vietnamese (Vietnam)