quốc gia. ASC thực hiện công việc của AMM trong thời gian giữa 2 kỳ họp và báo cáo trực tiếp cho AMM.
2.9. Cuộc họp các quan chức cao cấp ( Senior Officials Meeting-SOM)
SOM được chính thức coi là một bộ phận của cơ cấu trong ASEAN tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 3 tại Ma-ni-la 1987. SOM chịu trách nhiệm về hợp tác chính trị ASEAN và họp khi cần thiết; báo cáo trực tiếp cho AMM.
2.10. Cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp (Senior Economic Officials Meeting-SEOM)
SEOM cũng đã được thể chế hoá chính thức thành một bộ phận của cơ cấu ASEAN tại Hội nghị Cấp cao Ma-ni-la 1987. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 4 năm 1992, 5 uỷ ban kinh tế ASEAN đã bị giải tán và SEOM được giao nhiệm vụ theo dõi tất cả các hoạt động trong hợp tác kinh tế ASEAN . SEOM họp thường kỳ và báo cáo trực tiếp cho AEM.
2.11. Cuộc họp các quan chức cao cấp khác
Ngoài ra có các cuộc họp các quan chức cao cấp về tài chính, giao thông vận tải, môi trường, ma tuý cũng như của các uỷ ban chuyên ngành ASEAN như phát triển xã hội, khoa học và công nghệ, các vấn đề công chức, văn hoá và thông tin. Các cuộc họp này báo cáo cho ASC và Hội nghị các Bộ trưởng liên quan.
2.12. Cuộc họp tư vấn chung (Joint Consultative Meeting-JCM)
Cơ chế họp JCM được lập ra theo quyết định của Hội nghị Cấp cao ASEAN năm 1987 tại Manila. JCM bao gồm Tổng thư ký ASEAN , SOM, SEOM, các Tổng giám đốc ASEAN. JCM được triệu tập khi cần thiết dưới sự chủ toạ của Tổng thư ký ASEAN để thúc đẩy sự phối hợp giữa các quan chức liên ngành. Tổng thư ký ASEAN sau đó thông báo kết quả trực tiếp cho AMM và AEM.
Có thể bạn quan tâm!
- Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ nay đến 2010 - 1
- Nội Đung Loại Bỏ Các Hàng Rào Phi Thuế Quan (Non Tarif Barriers- Ntbs) Và Các Hạn Chế Định Lượng (Quantitative Restriction – Qr)
- Kim Ngạch Xuất Khẩu Hàng Hóa Sang Malaysia Trong Thời Gian 1996-2005
- Kim Ngạch Xuất Khẩu Hàng Hóa Sang Indonesia Trong Thời Gian 1996-2005
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
2.13. Ban thư ký ASEAN quốc gia
Mỗi nước thành viên ASEAN đều có Ban thư ký quốc gia đặt trong bộ máy của Bộ Ngoại giao để tổ chức, thực hiện và theo dõi các hoạt động liên quan đến ASEAN của nước mình. Ban thư ký quốc gia do một Tổng Vụ trưởng phụ trách.
2.14. Ban thư ký ASEAN
Ban thư ký ASEAN được thành lập theo Hiệp định ký tại Hội nghị Cấp cao lần thứ hai Ba-li, 1976 để tăng cường phối hợp thực hiện các chính sách, chương trình và các hoạt động giữa các bộ phận khác nhau trong ASEAN. Hội nghị Cấp cao lần thứ tư tại Singapore năm 1992 đã thoả thuận tăng cường Ban thư ký ASEAN để nó có thể thực hiện hữu hiệu hơn các hoạt động của ASEAN . Theo thoả thuận, Ban thư ký ASEAN sẽ có một cơ cấu mới và chức năng, trách nhiệm rộng lớn hơn trong việc đề xuất, khuyến nghị, phối hợp và thực hiện các hoạt động của ASEAN
3. Nguyên tắc hoạt động:
Sau gần ba thập kỷ tồn tại và phát triển, các Quốc gia thành viên ASEAN đã dần cùng nhau xây dựng và khẳng định các nguyên tắc chính làm cơ sở cho quan hệ trong nội bộ và Quốc gia thành viên của Hiệp hội và giữa các nước này với các nước khác trong và ngoài khu vực. Những nguyên tắc đó đã được phản ánh trong nhiều văn kiện được ASEAN thông qua. Nổi lên là:
3.1- Các nguyên tắc làm nền tảng cho quan hệ giữa các Quốc gia thành viên và với bên ngoài:
Trong quan hệ với nhau, các nước ASEAN luôn tuân theo 5 nguyên tắc chính đã được nêu trong Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam á ( Hiệp ước Ba-li ), ký tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ I tại Ba-li năm 1976, là :
a/ Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc;
b/ Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình, không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài;
c/ Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
d/ Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân thiện; e/ Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực;
f/ Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả;
3.2- Các nguyên tắc điều phối hoạt động của Hiệp hội:
Nguyên tắc nhất trí (consensus): nghĩa là mọi quyết định về các vấn đề quan trọng chỉ được coi là của ASEAN khi tất cả các nước thành viên nhất trí thông qua. Nguyên tắc này theo như quyết định của cuộc họp ngoại trưởng ASEAN ngày 25/9/1995 được áp dụng ở những mức độ khác nhau, có những vấn đề sẽ đựơc nhất trí toàn bộ, có những vấn đề thông qua theo nhất trí đa số, nhất trí tương đối và nhất trí tuyệt đối.
Nguyên tắc bình đẳng (equality): thể hiện trên 2 mặt, thứ nhất là các nước ASEAN không kể lớn nhỏ hay giàu nghèo đều bình đẳng với nhau trong nghĩa vụ đóng góp cũng như chia sẻ quyền lợi; thứ hai, hoạt động của tổ chức ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên cho các nước thành viên theo vần A, B, C.
Nguyên tắc 6 – X: được thoả thuận tháng 2/1992, theo nguyên tắc này, một dự án hoặc kế hoạch chung của ASEAN nếu từ hai nước trở lên chấp nhận thực hiện thì cứ tiến hành trước dự án chứ không đợi tất cả các nước thành viên khác thực hiện mới tiến hành.
Trong quan hệ giữa các nước ASEAN đang dần dần hình thành một số các nguyên tắc, tuy không thành văn, không chính thức song mọi người đều hiểu, tôn trọng và tự giác áp dụng như:
Nguyên tắc “cho và nhận”, có đi có lại (give and take): Theo nguyên tắc này, trong quá trình hợp tác giữa các nước ASEAN , nếu nước A nhân nhượng nước B một vấn đề này thì nước B đến lượt mình, trong một dịp khác, sẽ đáp lại bằng một nhân nhượng khác cho nước A. Đây có thể gọi là nguyên tắc quân tử trong quan hệ giữa các nước ASEAN;
Nguyên tắc tế nhị, lịch sự, không gây đối đầu, có thái độ hữu nghị, thân thiện;
Nguyên tắc ngoại giao thầm lặng, cá nhân, không tuyên truyền tố cáo qua báo chí;
Nguyên tắc giữ gìn đoàn kết ASEAN , giữ bản sắc chung của tổ chức này.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG ASEAN
1. Thị trường ASEAN là một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng:
ASEAN là một thị trường rộng lớn gồm 10 quốc gia với với dân số khoảng 604,9 triệu người (năm 2000), GDP khoảng 731 tỷ đô la Mỹ và tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm 339,2 tỷ USD là một thị trường rộng lớn không đòi hỏi cao về chất lượng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, hội nhập vào thương mại khu vực và trên thế giới [13]. Đây cũng là nơi mà các nước ASEAN đang tiến hành thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA ). Thị trường ASEAN vừa là thị trường trung gian vừa là thị trường tiêu thụ trực tiếp nhiều sản phẩm của Việt Nam, là một thị trường có sức tiêu thụ rất đa dạng cả trong hiện tại và tương lai. Ngoại trừ Singapore và Brunei là những nước có thu nhập được xếp vào loại cao nhất thế giới, tám nước còn lại với hơn 99% dân số của ASEAN là những nước đang phát triển, có những nước thu nhập của người dân được liệt vào mức thấp nhất của thế giới (Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanma) và có những nước thu nhập của người dân thuộc loại trung bình của thế giới (Indonesia, Philippin, Malaysia, Thái Lan) nên nhu cầu người dân rất đa dạng và phong phú. Thị hiếu của người dân cũng thuộc loại dễ tính, không đòi hỏi quá cao về chất lượng sản phẩm. Nhiều nước trong khu vực có tỷ lệ dân số sống ở nông thôn còn rất cao, thị trường nông thôn chưa được khai thác một cách đầy đủ. Với tốc độ đô thị hoá ngày càng tăng, nhu cầu của người dân cũng tăng nhanh không kém. Đây là mảnh đất màu mỡ đối với các doanh nghiệp biết khai thác các cơ hội trên thị trường ASEAN.
Suốt trong một thời gian dài, ASEAN đã đạt được mức tăng trưởng thuộc loại cao nhất thế giới: GDP tăng trung bình cả khối là 5-10%/năm. Như vậy, xét trên bình diện chung nhất, khi kinh tế ASEAN tăng trưởng với mức cao, dung lượng thị trường do đó cũng được mở rộng [13]. Bởi lẽ, một mặt, để tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao, ASEAN cần một khối lượng hàng hoá đầu tư ngày càng lớn. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế cao cũng làm cho thu nhập thực tế tính theo đầu người tăng lên, kéo theo nhu cầu hàng hoá tiêu dùng mở rộng, cơ cấu tiêu dùng có sự thay đổi đa dạng.
2. Thị trường ASEAN là một thị trường hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tiềm năng chủ yếu của ASEAN là lao động dồi dào, giá rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng hạn chế vốn và kỹ thuật. Luật đầu tư nước ngoài của các nước ASEAN rất thoáng nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN ngày càng tăng, từ mức 4% tổng FDI vào các nước đang phát triển vào năm 1970 đã tăng lên 22,8% vào năm 1995 và lên tới 26,6% vào năm 2000. Tổng vốn FDI toàn cầu đổ vào khu vực ASEAN tăng 48% trong năm 2005 so với 2004, lên tới 38 tỷ USD (31,7 tỷ euro), mức tăng kỷ lục kể từ cuộc khủng hoảng tài chính châu á 1997 – 1998, trong đó Xingapo dẫn đầu với 20 tỷ USD, tiếp đến là Indônesia 6 tỷ USD và Thái Lan 4 tỷ USD. Ngoài ra, riêng trong quý I năm 2006, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN đạt 14 tỷ USD, tăng 90% so với cùng năm trước [16,17].
Bên cạnh đó, ASEAN là thị trường tài chính và công nghệ hoà nhập nhanh chóng vào các xu thế tự do hoá cũng là một yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư.
Trong giai đoạn hiện nay, người ta cho rằng tất cả các nước ASEAN đều sốt sắng trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Minh chứng cho điều nhận định trên là tất cả các nước ASEAN, từ lâu đã ban bố Luật Đầu tư nước ngoài với tinh thần khuyến khích cao, có sức hút mạnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn thế nữa, các nền kinh tế ASEAN có truyền thống gắn với các trung tâm công nghiệp và thương mại lớn nhất thế giới: Mỹ, Nhật, EU. Đây cũng là nơi có các công ty xuyên quốc gia lớn, luôn tìm kiếm cơ hội đầu tư ở các nước đang phát triển.
Việc thành lập AFTA sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có cơ hội chiếm lĩnh được thị phần đáng kể ở ASEAN và họ sẽ được hưởng các ưu đãi khi sản phẩm được sản xuất ra có xuất xứ 40% tại ASEAN. Nhờ quy định thấp hơn về nguồn gốc xuất xứ so với các khối mậu dịch tự do khác, việc đầu tư để sản xuất tại một nước nằm bên trong AFTA và bán sản phẩm cho một nước thuộc AFTA chắc chắn sẽ đem lại lợi ích cho các nhà đầu tư.
Thị trường ASEAN tuy lớn về quy mô, hấp dẫn về hiệu quả thương mại- đầu tư song do tính dễ tổn thương về cơ cấu và thể chế tài chính, người ta chưa coi ASEAN là thị trường an toàn và ổn định.
3. ASEAN là thị trường đa văn hoá, đa tôn giáo:
Văn hoá và tôn giáo có ảnh hưởng khá lớn đến thị hiếu tiêu dùng của người dân. Sự đa dạng trong văn hoá và tôn giáo đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong thị hiếu tiêu dùng.
ASEAN là hiệp hội của 10 quốc gia, mà mỗi quốc gia lại là cộng đồng của rất nhiều dân tộc thuộc những nền văn hoá khác nhau. Trải qua nhiều năm bị thực dân phương Tây đô hộ, truyền thống á Đông vẫn được bảo tồn và phát huy. Tuy nhiên, nền văn minh phương Đông cũng bị ảnh hưởng phần nào của văn minh phương Tây. Điều đó tạo cho ASEAN một sắc thái văn hoá đa dạng, phong phú, vừa trung thành với truyền thống, vừa thay đổi để theo kịp với sự phát triển của thời đại.
ASEAN cũng là một cộng đồng đa tôn giáo: ở Indonesia, Malaysia, Brunei, tôn giáo chính là đạo Hồi. Tại Việt Nam, Thái Lan, Singapore, Myanma, Campuchia, Lào thì đa số người dân theo đạo Phật. Còn đạo Thiên chúa giáo là tôn giáo chính ở Philippin. Ngoài ra, người dân còn theo đạo Tin lành, Đạo Hinđu, ấn Độ giáo, đạo Lão…Tuy vậy, hầu như ở mỗi nước ASEAN đều có đủ các tôn giáo chính ở khu vực. Thị trường ASEAN đa dạng, nhu cầu của người dân cũng rất đa dạng, văn hoá và tôn giáo lại tương đối giống Việt Nam nên đối với các doanh nghiệp Việt Nam, việc tìm hiểu và nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của người dân
ASEAN là khá dễ dàng, từ đó các doanh nghiệp có nhiều điều kiện thuận lợi để thâm nhập thị trường.
4.Thị trường ASEAN có cơ cấu hàng hoá xuất khẩu tương đối giống nhau:
Trừ Singapore là nước trung chuyển mậu dịch lớn của thế giới, các nước ASEAN còn lại có các mặt hàng xuất khẩu tương đối giống nhau gồm khoáng sản, nông phẩm, và các mặt hàng sơ chế, nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị. Chất lượng và tạo dáng mẫu mã công nghiệp không thua kém nhau bao nhiêu và hơn nữa trình độ phát triển kinh tế không đồng nhất kiểu EU nên các mặt hàng của ASEAN mang tính cạnh tranh nhau hơn là bổ sung cho nhau. Các mặt hàng của ASEAN không những cạnh tranh nhau trên thị trường thế giới mà còn cạnh tranh nhau trên chính thị trường khu vực. Ví dụ như có rất nhiều mặt hàng cùng sản xuất, có thể cạnh tranh nhau không chỉ riêng trên thị trường quốc tế mà cả thị trường ASEAN như các loại nông sản chưa chế biến và đã chế biến, ôtô, xe máy, máy móc gia dụng (máy giặt, điều hoà, quạt điện), sắt thép, các sản phẩm cơ khí thông dụng, hàng dệt may, đồ chơi trẻ em, mỹ phẩm. Việc tham gia AFTA tạo điều kiện thuận lợi cho các nước ASEAN mua được các nguyên vật liệu với giá rẻ của nhau để sản xuất các sản phẩm có giá thành thấp, đồng thời tạo động lực cho việc phân công lại lao động và tăng khả năng trao đổi buôn bán, hợp tác đầu tư trong nội bộ khu vực. Song nó cũng đặt ra thách thức đối với các nước kém phát triển trong khối ASEAN trong đó có Việt Nam, đặc biệt là khi thời điểm thực hiện ASEAN đang đến rất gần.
5. Thuế và thủ tục hải quan ở thị trường ASEAN
5.1. Nội dung Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (common effective preferential tariff – CEPT):
Trong tất cả các chương trình hợp tác kinh tế- thương mại của khối ASEAN thì Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung CEPT đóng vai trò quan trọng nhất, nhằm biến ASEAN thành khu vực mậu dịch tự do (ASEAN free trade area – AFTA), nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá ASEAN trên thị trường quốc tế và tạo ra sức cuốn hút đối với đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ tư tại Singapore, ngày 28/1/1992, các nguyên thủ các nước ASEAN đã
thống nhất thông qua CEPT và chương trình này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/1993, ban đầu dự định thực hiện trong 15 năm, nhưng trước tình hình thương mại quốc tế có nhiều biến đổi, Hội nghị Bộ trưởng ASEAN tại Chiêng Mai (Thái Lan) diễn ra vào 12/1993 đã quyết định rút ngắn thời gian thực hiện CEPT xuống còn 10 năm tức là đến 2003 và sau Hội nghị thượng đỉnh lần 6 tại Hà Nội, mốc thời gian này được ấn định là 1/1/2003 cho ASEAN–6 (ASEAN-6 bao gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippin, Singapore và Thái lan).
Hiệp định CEPT thực chất là chương trình cắt giảm thuế quan chung xuống mức 0 - 5% trong buôn bán trao đổi hàng hoá giữa các nước thành viên ASEAN với nhau và trong khung hiệp định đó nhấn mạnh cho các mặt hàng công nghiệp chế biến là đối tượng chủ yếu, bao gồm cả các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến. Hiệp định CEPT là công cụ chỉ đạo thực hiện AFTA với nội dung và lộ trình cắt giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan của từng danh mục như sau:
a) Danh mục cắt giảm ngay ( IL): Các sản phẩm theo danh mục này được các nước thành viên nhất trí chia thành 2 lộ trình cắt giảm:
Kênh giảm thuế nhanh ( Fast Track) ( còn gọi là kế hoạch giảm thuế tăng tốc): được áp dụng cho 15 nhóm mặt hàng hoá sản phẩm công nghiệp chế biến của ASEAN là: Xi măng, hoá chất, phân bón, chất dẻo, hàng điện tử, dầu thực vật, sản phẩm da, sản phẩm cao su, giầy, đồ gốm và thuỷ tinh, đồ dùng bằng gỗ và song mây, dược phẩm với khoảng 3200 mặt hàng chiếm 34% tổng danh mục giảm thuế của toàn ASEAN. Lịch trình giảm thuế nhanh của Hiệp định CEPT được phân thành 2 nấc: danh mục hàng hoá đang chịu thuế suất dưới mức 20% sẽ được cắt giảm xuống 0%- 5% kể từ ngày 1/1/1998, bao gồm 15 nhóm mặt hàng chiếm khoảng 40% thương mại trong khối. Các sản phẩm có thuế suất trên 20% được giảm xuống dưới 5% kể từ 1/1/2000.
Kênh giảm thuế bình thường (Normal Track) (còn gọi là chương trình giảm thuế quan theo lịch trình thông thường): được áp dụng cho tất cả các sản phẩm công nghiệp chế biến còn lại. Đối với các sản