TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
---------***---------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG ASEAN TỪ NAY ĐẾN 2010
Có thể bạn quan tâm!
- Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ nay đến 2010 - 2
- Nội Đung Loại Bỏ Các Hàng Rào Phi Thuế Quan (Non Tarif Barriers- Ntbs) Và Các Hạn Chế Định Lượng (Quantitative Restriction – Qr)
- Kim Ngạch Xuất Khẩu Hàng Hóa Sang Malaysia Trong Thời Gian 1996-2005
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Sinh viên thực hiện : Chu Thị Tâm
Lớp : A6
Khóa : 41B - KTNT
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Đào Thị Thu Giang
Hà Nội, tháng 11/2006
1. Sự cần thiết của đề tài:
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam thì vấn đề mở rộng thị trường luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu. Thị trường ASEAN là một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng của các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN vào ngày 28/7/1995 và tham gia Hiệp định cắt giảm thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung CEPT.
Tuy nhiên khi đã chính thức bước vào sân chơi của ASEAN thì thuận lợi cũng nhiều và khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói chung không ít. Liệu Việt Nam có khắc phục được những bất lợi và phát huy được tối đa các thuận lợi hay không? Khi tham gia vào thị trường ASEAN thì hàng xuất khẩu của Việt Nam phải làm thế nào để cạnh tranh được và gia tăng kim ngạch vào thị trường ASEAN. Các doanh nghiệp Việt Nam phải làm sao để khai thác được các lợi thế khi đã trở thành thành viên của ASEAN và bước vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA ). Đó là những vấn đề cần phải được nghiên cứu một cách hệ thống và khoa học. Việc Việt Nam tham gia vào thị trường ASEAN một cách có hiệu quả nhất, đặc biệt là khi thời điểm Việt Nam thực hiện đầy đủ cam kết theo AFTA đang đặt ra những yêu cầu cấp bách không chỉ cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh tế mà cả cho các nhà nghiên cứu phải nhanh chóng tìm ra những đối sách thích hợp trước các tác động của quá trình hội nhập ASEAN đối với nền kinh tế quốc dân.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, em đã chọn đề tài: “ Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ nay đến 2010” làm khoá luận tốt nghiệp của mình
2. Mục đích nghiên cứu:
Giới thiệu về hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), đặc điểm về thị trường ASEAN
Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ năm 1996 đến nay.
Một số giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ nay đến 2010.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ năm 1996 đến nay từ đó có cái nhìn tổng quát về xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN và đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ nay đến 2010.
4. Phương Pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn – thu thập thông tin, số liệu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, tạp chí , Internet, và các phương pháp duy vật biện chứng, phân tích kinh tế, suy luận logic, tổng hợp thống kê, so sánh, đánh giá, phương pháp suy luận quy nạp, diễn dịch… để phục vụ mục đích nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài mục lục, lời mở đầu, lời kết và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận bao gồm 3 chương:
Chương I: Giới thiệu khái quát về thị trường ASEAN
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ năm 1996 đến nay.
Chương III: Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ nay đến 2010
Do điều kiện về thời gian, nguồn tài liệu và trình độ còn nhiều hạn chế nên khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của các thầy cô để em có thể hoàn thiện khả năng nghiên cứu của mình. Nhân đây, em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo - Th.s Đào Thu Giang đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Chương I: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG ASEAN
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HIỆP HỘI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á (ASEAN)
1. Quá trình hình thành và phát triển:
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam á (ASEAN) ra đời trong bối cảnh có nhiều biến động đang diễn ra trong khu vực và trên thế giới, bao gồm cả những thay đổi từ bên ngoài tác động vào khu vực cũng như những vấn đề nảy sinh từ bên trong mỗi nước. Để đối phó với các thách thức này, xu hướng co cụm lại trong một tổ chức khu vực với một hình thức nào đó để tăng cường sức mạnh bản thân đã xuất hiện và phát triển trong các nước thành viên tương lai của ASEAN. Trước ASEAN, ở Đông Nam á đã có một vài tổ chức khu vực ra đời và tồn tại được một thời gian ngắn hoặc đã manh nha hình thành. Đó là Hiệp hội Đông Nam á ( The Association of Southeast Asia- ASA ) được thành lập ngày 31/7/1961 gồm Thái Lan, Philippin và Liên bang Malaysia và tổ chức MAPHILINDO ra đời tháng 8 năm 1963 bao gồm Malaysia , Philippin và Indonesia.
Mặc dù vậy, những nỗ lực theo hướng trên vẫn được xúc tiến và ngày 8/8/1967 Bộ trưởng Ngoại giao các nước Indonesia, Thái Lan, Philippin, Singapore và Phó Thủ tướng Malaysia ký tại Băng-cốc bản Tuyên bố thành lập Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN). Bản Tuyên bố đó được coi như là hiến chương của ASEAN. Nội dung Tuyên bố thể hiện ba mục tiêu lớn của Hiệp hội mà được xác định là hợp tác để phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực thuộc mối quan tâm và quyền lợi chung của tất cả các nước trong khu vực:
a- Hợp tác kinh tế và xã hội giữa các quốc gia thành viên với niềm tin tưởng rằng sự tăng cường kinh tế là nguồn gốc của tiến bộ xã hội và văn hoá.
b- Hợp tác vì hoà bình và ổn định khu vực bằng việc triệt để tôn trọng công bằng và ưu tiên luật pháp trong quan hệ giữa các nước trong khu vực và nghiêm chỉnh tuân theo các nguyên tắc của Hiến chương LHQ.
c- Hợp tác với các tổ chức quốc tế và khu vực khác.
Hiện nay tổ chức này có 10 hội viên bao gồm 5 nước hội viên nguyên thuỷ và 5 hội viên gia nhập sau này là Brunei Darussalam (8-1-1984), Việt Nam (28-7- 1995), Lào và Myanmar (23-7-1997), Campuchia (30-4-1999)
Cùng với sự phát triển cả về quy mô thành viên và chiều sâu hợp tác, tới nay, ASEAN thực sự là một liên kết khu vực làm tăng sức mạnh của các nước Đông Nam á. Vị thế của ASEAN đang ngày càng quan trọng trên trường quốc tế và khu vực, trở thành một đối trọng với các quốc gia lớn ở châu á như Nhật Bản, Trung Quốc, và ấn Độ. Với các chương trình lớn về hợp tác kinh tế, tự do hoá thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, khả năng bổ sung và thay thế các nguồn lực sản xuất giữa các nước trong khu vực đang được tăng lên sẽ dẫn tới hiệu quả cao trong sản xuất và tiêu dùng của thị trường từng nước thành viên, thúc đẩy thương mại và đầu tư nội bộ khu vực cũng như giữa khu vực với phần còn lại của nền kinh tế thế giới, từ đó phát triển kinh tế các thành viên.
2. Cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức hiện nay của ASEAN là kết quả của một quá trình hoàn thiện từng bước, song song với việc phát triển của tổ chức ASEAN trong gần 30 năm qua. Khi mới thành lập vào năm 1967, bộ máy ASEAN còn rất giản đơn, bao gồm bốn đầu mối hay bốn cơ chế chủ yếu: Hội nghị hàng năm của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM), một Uỷ ban thường trực ASEAN (ASC) để điều phối các công việc thường nhật của ASEAN giữa các Hội nghị AMM. Các Uỷ ban chuyên trách và các Uỷ ban thường trực gồm các chuyên gia và quan chức trên các lĩnh vực cụ thể và Ban thư ký Quốc gia ở mỗi nước thành viên để thay mặt nước mình thực hiện các công việc cuả Hiệp hội và phục vụ các cuộc họp của ASEAN.
Sau một quá trình hoàn thiện, với mốc quan trọng nhất là các quyết định của 4 Hội nghị Cấp cao ASEAN các năm 1976, 1977, 1987 và đặc biệt là vào 1992, cơ cấu tổ chức chung của ASEAN cũng như chức năng của từng bộ phận đã từng bước được hình thành và củng cố. Cơ cấu tổ chức của ASEAN hiện nay như sau:
2.1 Hội nghị những người đứng đầu Nhà nước/chính phủ ASEAN (ASEAN Summit)
Hội nghị những người đứng đầu Nhà nước/chính phủ ASEAN hay còn gọi là Hội nghị Cấp cao ASEAN và đó là cơ quan quyền lực cao nhất của ASEAN. Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 4 họp tại Singapore năm 1992 quyết định những Người đứng đầu chính phủ ASEAN họp chính thức 3 năm một lần và họp không chính thức ít nhất 1 lần trong khoảng thời gian 3 năm đó để đề ra phương hướng và chính sách chung cho hoạt động của ASEAN và đưa ra quyết định về các vấn đề lớn. Từ sau Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 5, giữa các cuộc họp Cấp cao chính thức 3 năm một lần, hàng năm đều họp Cấp cao không chính thức.
2.2. Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (ASEAN Ministerial Meeting-AMM)
Theo Tuyên bố Băng cốc năm 1967, AMM là hội nghị hàng năm của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN có trách nhiệm đề ra và quyết định chính sách cụ thể của ASEAN trên cơ sở các phương hướng và chính sách chung của Hội Nghị Thượng đỉnh ASEAN, trong đó tập trung chủ yếu vào sự hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, an ninh, ngoại giao, văn hoá và xã hội. AMM được tổ chức ít nhất mỗi năm một lần và có các hội nghị ngoại trưởng không chính thức
khi cần thiết. AMM cũng là cơ quan có trách nhiệm hàng đầu trong việc điều hành các quan hệ của Hiệp Hội với bên ngoài.
AMM và AEM có trách nhiệm báo cáo chung lên những Người đứng đầu chính phủ ASEAN tại Hội nghị Cấp cao ASEAN .
2.3. Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers-AEM)
Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN là cơ cấu điều hành và hoạch định hợp tác cao nhất trên lĩnh vực kinh tế của ASEAN. Cũng như AMM, AEM họp chính thức hàng năm. Ngoài ra AEM có thể họp không chính thức khi cần thiết nhằm chỉ đạo các mặt hợp tác kinh tế trong ASEAN . AEM có trách nhiệm phải báo cáo công việc lên cho những Người đứng đầu Chính phủ ASEAN tại các Hội nghị Cấp cao. Được sự phân công của chính phủ, Bộ trưởng Thương Mại Việt Nam tham gia các AEM.
Trong AEM có Hội đồng AFTA (Khu vực mậu dịch tự do ASEAN) được thành lập theo quyết định của Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 4 năm 1992 tại Singapore để theo dõi, phối hợp và báo cáo việc thực hiện chương trình ưu đãi quan thuế có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA.
2.4. Hội nghị Bộ trưởng các ngành:
Trong những thập kỷ đầu, Hội nghị Bộ trưởng của một ngành trong hợp tác kinh tế ASEAN sẽ được tổ chức khi cần thiết để thảo luận sự hợp tác trong ngành cụ thể đó. Đến nay, ASEAN đã chính thức có cơ chế Hội nghị Bộ trưởng tài chính (AFMM) và Hội nghị Bộ trưởng Giao thông vận tải (ATM) và các hội nghị Bộ trưởng năng lượng, Khoa học công nghệ và môi trường, Lao động, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Lâm nghiệp, v.v...
2.5. Các hội nghị cấp Bộ trưởng hoặc tương đương
Trên một số lĩnh vực hợp tác ASEAN khác như y tế, phúc lợi xã hội, giáo dục, luật pháp, đầu tư, du lịch.... có thể tiến hành các Hội nghị cấp Bộ trưởng hoặc người đứng đầu của các ngành khi cần thiết để điều hành các chương trình hợp tác trong các lĩnh vực này.
2.6. Hội nghị liên tịch các Bộ trưởng (Join ministerial meeting-JMM)
Hội nghị liên tịch các Bộ trưởng được tổ chức khi cần thiết để thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngành và trao đổi ý kiến về hoạt động của ASEAN . JMM bao gồm các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng kinh tế ASEAN , dưới sự đồng chủ tịch của Chủ tịch AMM và Chủ tịch AEM. JMM có thể được triệu tập theo yêu cầu của Bộ trưởng Ngoại giao hoặc của Bộ trưởng kinh tế. JMM được triệu tập lần đầu tiên tại Ku-ching (Malaysia) 2/1991 để trao đổi ý kiến về vai trò của ASEAN trong APEC.
Trong thời gian gần đây, còn có thêm hình thức JMM giữa các Bộ trưởng Ngoại giao, kinh tế và Tài chính.
2.7. Tổng thư ký ASEAN
Được những Người đứng đầu Chính phủ ASEAN bổ nhiệm theo khuyến nghị của Hội nghị AMM với nhiệm kỳ là 5 năm và có thể gia hạn thêm, nhưng không quá một nhiệm kỳ nữa.
Tổng thư ký ASEAN có hàm Bộ trưởng với quyền hạn lớn hơn theo quyết định của Hội nghị Cấp cao ASEAN 1992: khởi xướng, khuyến nghị và phối hợp các hoạt động của ASEAN , nhằm giúp nâng cao hiệu quả các hoạt động và hợp tác của ASEAN. Tổng thư ký ASEAN chịu trách nhiệm trước Hội nghị Cấp cao ASEAN; Các Hội nghị Bộ trưởng ASEAN khi đang họp và trước Chủ tịch Uỷ ban thường trực ASEAN giữa các kỳ họp. Tổng thư ký ASEAN , cũng chủ toạ các cuộc họp của ASC thay cho Chủ tịch ASC trừ phiên họp đầu tiên và cuối cùng. Bên cạnh đó, Tổng thư ký được tham dự các cuộc họp Tư vấn chung (Joint Consultative Meeting-JCM) với các quan chức cao cấp ASEAN và các Tổng giám đốc ASEAN; và thông báo kết quả các kỳ họp liên Hội nghị AMM và AEM.
2.8. Uỷ ban thường trực ASEAN ( ASEAN Standing committee-ASC)
ASC bao gồm chủ tịch là Bộ trưởng ngoại giao của nước đăng cai Hội nghị AMM sắp tới, Tổng thư ký ASEAN và tổng Giám đốc của các Ban thư ký ASEAN