Nhập khẩu vàng của Việt Nam năm 2008 và ảnh hưởng tới vấn đề an ninh tiền tệ - 2

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ VÀNG, THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ AN NINH TIỀN TỆ‌‌


1.1.Giới thiệu chung về vàng và thị trường vàng


1.1.1. Đặc điểm và giá trị của vàng


Từ xa xưa, kim loại đã phục vụ con người một cách tận tụy và trung thành. Kim loại có vai trò quan trọng trong cuộc sống cũng như góp phần tạo nên động lực phát triển cho con người. Vì vậy mà George Agrieola, nhà tư tưởng người Đức thế kỉ XVI, tác giả của nhiều công trình luyện kim đã khẳng định: “Con người sẽ không làm được gì nếu không có kim loại”.

Thế giới kim loại thật đa dạng, phong phú, hấp dẫn và chắc chắn trong tương lai, kim loại vẫn giữ vị trí hàng đầu như vẫn luôn là cơ sở của nền văn hóa vật chất của nhân loại.

Trong các kim loại thì vàng từ xa xưa đã được con người tôn vinh là: “Vua của các kim loại”, “Kim loại của các vua”. Lịch sử của vàng gắn liền với lịch sử nhiều nền văn minh nhân loại. Qua quá trình phát triển, con người đã đưa vàng từ vị trí một loại vật chất quý hiếm lên ngôi báu vật, có sức mạnh huyền bí. Vàng được coi là thước đo giá trị cho tất cả các loại hàng hóa khác.

Vậy vàng là gì? Sức mạnh của nó ở đâu? Để hiểu rõ về vàng, trước hết chúng ta cần nghiên cứu về nó dưới dạng một loại vật chất thuần túy.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

1.1.1.1. Vàng là một kim loại quý


Nhập khẩu vàng của Việt Nam năm 2008 và ảnh hưởng tới vấn đề an ninh tiền tệ - 2

Xét trên phương diện khoa học, vàng là một nguyên tố hoá học có kí hiệu Au (tên Latinh là Aurum), được xếp thứ 79 trong bảng tuần hoàn Mendeleep. Vàng là kim loại chuyển tiếp (hoá trị 3 và 1) mềm, dễ uốn, dễ dát mỏng, màu vàng và chiếu sáng, vàng không phản ứng với hầu hết các

hoá chất. Kim loại này có ở dạng quặng hoặc hạt trong đá và trong các mỏ bồi tích.

Trong đời sống, từ xa xưa, vàng đã là một kim loại cao giá, được nhiều người hâm mộ, ước mơ. Nguyên nhân chủ yếu, có lẽ do vàng là một kim loại khan hiếm, lại có nhiều thuộc tính lý hóa và ngày càng có nhiều công dụng mới được phát hiện. Ai cũng biết rằng từ xa xưa, vàng đã được sử dụng để chế tạo các loại vật dụng, đồ trang sức, trang trí sang trọng. Màu vàng tượng trưng cho sự phồn thịnh, cao sang. Các nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ và cả Việt Nam, vàng lại càng được ưa chuộng hơn.

1.1.1.2. Vàng là một kim loại không có quá nhiều nhưng cũng không quá hiếm

Loài người biết đến vàng và khai thác nó từ bao giờ chưa ai biết đích xác, nhưng hầu hết mọi dân tộc đều biết đến vàng vì sự có mặt của nó trên khắp thế giới. Cho tới nay, quốc gia nào cũng cố gắng thăm dò, tìm kiế m và khai thác thứ tài nguyên kim loại quý này. Những tài liệu thống kê của Tạp chí vàng thế giới năm 2000 cho thấy hầu như lục địa nào cũng có vàng, tuy mức độ tập trung phân tán có khác nhau, trữ lượng cũng có sự cách biệt rất lớn.

Trong thiên nhiên, vàng tồn tại như một thành phần của vỏ trái đất, được phân bổ khắp nơi, trên mặt đất, trong lòng đất và cả trong nước biển. Do vậy việc tìm ra một mỏ vàng với một nhà địa chất giàu kinh nghiệm là không khó, nhưng sẽ là rất khó để tìm ra một mỏ vàng có trữ lượng lớn trên 100 tấn vàng. Các nhà kinh tế Mỹ đã tính rằng, cứ 1000 mỏ vàng được tìm thấy thì mới có một mỏ vàng có trữ lượng lớn. Nói tìm vàng vừa dễ lại vừa khó là như vậy.

Hiện nay, mỏ vàng có quy mô khai thác, trữ lượng, hàm lượng vàng lớn nhất là mỏ Eezsteling của Nam Phi, trữ lượng ước tính khoảng 3,3 triệu tấn, hàm lượng vàng 5,7gr/tấn quặng. Còn vàng đang được khai thác ở độ

sâu nhất trong lòng đất là ở mỏ vàng Gold Strike, nằm ở bang Nevada, miền tây Hoa Kỳ. Người ta gọi đó là mạch vàng của thế kỷ, chứa 900 tấn vàng, nằm sâu 400m dưới lòng đất.-1

Trong nước biển, các nhà địa chất cho biết cũng chứa vàng, nhưng hàm lượng vàng rất ít, 1m3 nước biển chứa khoảng 0,05mgr vàng. Trữ lượng vàng trong đại dương ước tính khoảng 3 tỷ tấn nhưng công nghệ hiện nay chưa đáp ứng được việc khai thác, hơn nữa chi phí “đãi nước tìm vàng” như thế này rõ ràng là quá cao.

Trong lịch sử nhân loại, ước tính khoảng 116,746 tấn vàng đã được khai thác. Các khu vực khai thác chính là Nam Phi 43.989 tấn, Liên bang Nga khoảng 16.679 tấn, Mỹ khoảng 5.570 tấn, Australia 7.169 tấn, Brazil 2482 tấn và Colombia 2.086 tấn.2

1.1.1.3. Giá trị của vàng


Từ những thuộc tính vốn có, vàng đã sớm có ích cho con người về nhiều mặt. Nó đã lần lượt thỏa mãn những nhu cầu từ đơn giản đến phức tạp trong đời sống con người với tư cách là vật phẩm tiêu dùng, tư liệu sinh hoạt hoặc là vật biểu thị cho một ước lệ chung: tiền tệ.

Đầu tiên, cùng với sự phát hiện ra vàng, con người đã thông qua lao động làm cho vàng trở thành hữu ích dưới dạng các trang sức cho bản thân. Ngoài ra, vàng còn được sử dụng rộng rãi làm các đồ tế tự, đúc các bức tượng thần linh. Dần dần, nghề thủ công mỹ nghệ kim hoàn đã hình thành và phát triển, phục vụ cho nhu cầu làm đẹp, tôn giáo và biểu thị quyền lực của con người như đồ dùng hàng ngày, đồ trang sức, các công trình mỹ thuật, điêu khắc, kiến trúc.

Dùng vàng làm đồ trang sức, trang trí là một trong những mục đích sử dụng đầu tiên trong sử dụng vàng của con người. Đồng tiền vàng đầu tiên



1 . Người điều khiển giá vàng – Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 2/2006 trang 9

2 Nguồn: WGC

ra đời vào thế kỷ thứ IX trước công nguyên dưới triều đại vua Gyges ở Lydie (Ai Cập). Cung điện Babylon nổi tiếng trong lịch sử cũng được trang hoàng rực rỡ: lối đi lát cẩm thạch, cánh cửa dát vàng, bọc đồng và nạm kim cương. Chùa Vàng nổi tiếng ở gần Bangkok (Thái Lan) cũng có một bức tượng đúc bằng vàng khối, nặng 5,5 tấn.

Bên cạnh các giá trị truyền thống, ngày càng có nhiều công dụng mới của vàng được phát hiện và ứng dụng trong các ngành công nghiệp mới. Vàng nguyên chất quá mềm không thể dùng cho việc thông thường nên chúng thường được làm cứng bằng cách tạo hợp kim với bạc, đồng và các kim loại khác. Vàng và hợp kim của nó thường được dùng nhiều nhất trong ngành trang sức, tiền kim loại và là một chuẩn cho trao đổi tiền tệ ở nhiều nước. Vì tính dẫn điện tuyệt vời, tính kháng ăn mòn và các kết hợp lí tính và hóa tính mong muốn khác, vàng trở nên nổi bật từ cuối thế kỉ 20 như là một kim loại công nghiệp thiết yếu.

Một số ứng dụng mới của vàng:

Vàng có thể được làm thành sợi và dùng trong ngành thêu.

Vàng thực hiện các chức năng quan trọng trong máy tính, thiết bị thông tin liên lạc, đầu máy máy bay phản lực, tàu không gian và nhiều sản phẩm khác.

Tính dẫn điện cao và đề kháng với ôxi hoá của vàng khiến nó được sử dụng rộng rãi để mạ bề mặt các đầu nối điện, bảo đảm tiếp xúc tốt và trở kháng thấp.

Vàng được dùng trong nha khoa phục hồi, đặc biệt trong phục hồi răng như thân răng và cầu răng giả.

 Vàng keo (hạt nano vàng) là dung dịch đậm màu hiện đang được nghiên cứu trong nhiều phòng thí nghiệm y học, sinh học…. Nó cũng là dạng được dùng làm nước sơn vàng lên đồ gốm trước khi nung.

Axít clorauric được dùng trong chụp ảnh để xử lí ảnh bạc.

 Aurothiomalat dinatri dùng để điều trị viêm khớp dạng thấp.

Đồng vị vàng Au198, (chu kỳ bán rã: 2,7 ngày) được dùng điều trị một số dạng ung thư và một số bệnh khác.

Vàng được dùng để tạo lớp áo phủ, giúp cho các vật chất sinh học có thể xem được dưới kính hiển vi điện tử quét.

Ngoài giá trị sử dụng kể trên, với tính chất quý hiếm của mình, vàng còn có giá trị tiền tệ. Trước khi trở thành tiền tệ, vàng cũng chỉ là một loại hàng hóa quý hiếm. Vàng chỉ thật sự có vai trò quan trọng trong đời sống con người khi vàng mang hình thái tiền tệ. Vì lúc đó, vàng có thể trực tiếp chuyển đổi thành bất cứ hàng hóa nào. Đây mới là động lực thúc đẩy con người không ngừng tìm kiếm, khai thác, chế tác và tích trữ vàng nhằm sử dụng vàng trên khía cạnh tiền tệ nhiều hơn là trên khía cạnh giá trị sử dụng.

Vàng được sử dụng như một loại tài sản tài chính, mức độ sử dụng của nó đạt kỷ lục vào thế kỉ thứ 19. Khi đó các khoản thanh toán quốc tế trên cơ sở vàng đã được thực hiện mà hầu như không gặp bất kì trở ngại nào. Nhưng Đại chiến thế giới lần thứ Nhất, rồi Đại chiến thế giới Hai và tình hình thế giới mới đã làm thay đổi căn bản tình hình này. Khả năng chuyển đổi bên trong của vàng đã bị hủy bỏ. Mọi nỗ lực quay lại sự ổn định trước đây đều thất bại. Ngày nay, vàng không còn giá trị tiền tệ trực tiếp, nhưng vẫn là một vật đảm bảo giá trị số một trên thế giới, là “vịnh tránh bão” trong điều kiện lạm phát, khủng hoảng hay suy thoái kinh tế. Thị trường vàng cùng với thị trường dầu mỏ, thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối là những thị trường quan trọng góp phần ổn định các vấn đề an ninh, tài chính, tiền tệ của một quốc gia.

1.1.2. Sơ lược về thị trường vàng thế giới


Trong nền kinh tế, vàng là một loại hàng hóa đặc biệt nên thị trường vàng cũng là một thị trường đặc biệt. Nó mang sắc thái riêng biệt, chịu nhiều nhân tố tác động và ngược lại, nó cũng tác động sâu rộng tới nhiều

lĩnh vực hoạt động kinh tế khác. Giá vàng thế giới cũng như giá vàng trong nước thường được xem như một loại phong vũ biểu kinh tế. Những vấn đề phức tạp xung quanh giá vàng luôn luôn là một ẩn số đối với những người đã từng bận tâm về nó. Vì thế, một nhận thức đúng đắn về vàng là cần thiết khi thực hiện bất kỳ một hành vi kinh tế nào.

1.1.2.1. Sự hình thành thị trường vàng thế giới


Bản vị vàng

Nói đến sự hình thành của thị trường vàng chúng ta có thể bắt đầu từ chế độ bản vị vàng. Chế độ bản vị vàng là chế độ tiền tệ ổn định nhất của TBCN, dùng kim loại vàng làm cơ sở vật ngang giá, xuất hiện năm 1870 ở Anh và nhanh chóng lan ra các nước phương Tây.

Một quốc gia theo chế độ bản vị vàng sẽ

1. Tuyên bố đơn vị tiền tệ của nước mình tương đương với một trọng lượng vàng được quy định nào đó.

2. Sẵn sàng nhận mua và bán vàng tự do, không hạn chế với bất cứ ai theo giá đã công bố, không có chênh lệch giữa giá mua và giá bán (tức nhà nước chấp nhận tự do chuyển đổi giữa tiền giấy và vàng).

3. Không hạn chế việc nhập khẩu và xuất khẩu vàng.

Khi hai quốc gia cùng theo chế độ bản vị vàng thì lúc đó chế độ này sẽ định ra một “đồng giá vàng” hoặc một hối suất cố định giữa hai nước. Người ta gọi đó là Hối suất cố định dưới chế độ bản vị vàng (Gold standard).

Ví dụ: Vào một thời điểm nào đó, 1 đôla Mỹ tương đương 1/35 ounce vàng, 1 bảng Anh tương đương 3/35 ounce vàng. Lúc đó, một bảng Anh “nặng” gấp ba lần một đôla Mỹ. Hối suất quy đổi là 3 USD đổi 1 GBP.

Thế ổn định này được giữ tương đối vững cho đến năm 1914 khi chiến tranh thế giới thứ Nhất bùng nổ. Trong thời kỳ chiến tranh các nước tham chiến đã mất khá nhiều vàng dự trữ để trang trải các chi phí. Tình thế đó

buộc các chính phủ các nước phải ban hành lệnh cưỡng bách ban hành tiền giấy, tức là không cho đổi tiền giấy ra vàng nữa.

Kể từ sau khi chế độ bản vị vàng sụp đổ, thế giới bắt đầu bước sang giai đoạn mới: đồng tiền không mang giá trị thực chất của vật liệu làm ra nó nữa.

Bản vị vàng thoi hay Bản vị vàng hối đoái (Gold Bar Standard)

Còn gọi là chế độ Bản vị Sterling lấy đồng Bảng Anh làm tiêu chuẩn. Không cho đổi trực tiếp tiền giấy sang vàng nên người ta gọi đây là hình thức Bản vị vàng gián tiếp. Chỉ có đồng Bảng Anh và đồng Dollar Mỹ mới có thể đổi trực tiếp sang vàng và phải đổi với số lượng lớn.

Theo các nhà nghiên cứu thì đây là bước lùi của hệ thống tiền tệ TBCN: sự liên kết giữa vàng và tiền giấy đã trở nên lỏng lẻo, trong chế độ bản vị vàng gián tiếp người ta thấy sự xuất hiện của hiện tượng lạm phát.

Năm 1931 chế độ bản vị vàng thoi sụp đổ do đồng Bảng Anh bị phá giá. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 làm cho hệ thống bản vị vàng dưới mọi hình thức ở Châu Âu và Mỹ sụp đổ.

Bản vị Dollar Mỹ (Dollar Standard)

Được thiết lập sau Chiến tranh thế giới lần thứ II ở Bretton Wood. Tại hội nghị Bretton Wood diễn ra vào tháng 7/1944 với 44 nước tham dự (có cả Liên Xô cũ) đã thống nhất thông qua hệ thống tiền tệ Bretton Wood dùng đồng Dollar Mỹ làm tiêu chuẩn tiền tệ của thế giới. Cũng tại hội nghị này tổ chức IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) và WB (Ngân hàng thế giới) được thành lập. Kể từ đó đồng USD được coi là cầu nối giữa vàng và toàn bộ hệ thống tiền tệ thế giới.

Bản vị Dollar Mỹ thực chất cũng là bản vị vàng gián tiếp: chỉ có các NHTW của các nước mới có quyền đổi trực tiếp từ tiền giấy sang vàng, và chỉ cho phép đổi tiền thuộc lĩnh vực ngoại thương.

Vì là bản vị vàng gián tiếp nên có hiện tượng lạm phát, để giữ giá vàng ổn định Mỹ đã nỗ lực rất hiều nhưng cuối cùng đành phải phá giá Dollar vào tháng 8 năm 1971 và ngừng không cho đổi trực tiếp tiền sang vàng nữa. Do đó hệ thống tiền tệ Bretton Wood đã sụp đổ.

Bản vị SDR hay Bản vị tiền vàng (SDR Standard)

Là sáng kiến của tổ chức IMF vào năm 1970 gọi là quyền rút vốn đặc biệt (Special Drawing Right - SDR). SDR giúp các nước hội viên của IMF có thêm một phương tiện thanh toán quốc tế mà không cần dùng đến dự trữ vàng hay ngoại hối.

SDR không phải là tiền mặt mà thực chất là sổ kế toán ghi các khoản nợ có của mỗi hội viên. 1 lượng SDR = 0.8888671 g vàng nhưng chỉ tồn tại trên sổ sách nên gọi là bản vị tiền vàng. Cứ 5 năm IMF họp một lần để quyết định phần trăm đóng góp quỹ của các nước hội viên. Việt Nam đã là thành viên của IMF từ ngày 21 tháng 9 năm 1956.

Nguyên tắc hoạt động của “sổ” SDR: Quốc gia A thâm hụt cán cân ngoại thương với quốc gia B, nếu A và B đều là thành viên của IMF thì A không phải trả tiền trực tiếp cho B mà tài khoản SDR của A sẽ bị trừ đi khoản thâm hụt đó (ghi bên có) và sẽ chuyển sang sổ SDR của B (ghi bên nợ) tại IMF.

Các nước hội viên thanh toán nợ nần trong ngoại thương và cũng chỉ trong lĩnh vực ngoại thương mới được phép dùng sổ SDR để thanh toán thông qua SDR trên sổ sách của IMF. IMF ngoài vai trò trung tâm thanh toán quốc tế còn đóng vai trò trung tâm tín dụng quốc tế bằng cách làm chủ nợ của những nước thiếu hụt và làm con nợ của những nước dư thừa trong cán cân thanh toán.

Bản vị tiền giấy (Currency Standard)

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 11/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí