Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Sử Dụng Trong Hai Tiểu Thuyết

mình cách sử dụng ngôn ngữ rất riêng trong tất cả các tác phẩm văn học nói chung và truyện viết về thiếu nhi qua hai tác phẩm Côi cút giữa cảnh đờiChuyện của Lýnói riêng. Trong lời giới thiệu cho cuốn sách “50 truyện ngắn chọn lọc của Ma Văn Kháng”, GS. Phong Lê cho rằng: “dẫu là quen hoặc lạ, chữ nghĩa khi đã qua tay Ma Văn Kháng cứ ánh chói lên cái nội lực bên trong của nó”.

Cái “nội lực bên trong” trong ngôn ngữ của Ma Văn Kháng được tạo nên đặc sắc nhất là từ hệ thống ngôn ngữ dung dị, đời thường đậm đặc chất liệu dân gian và mang đậm phong vị miền núi; ngôn ngữ giàu chất thơ, chất biểu cảm.

3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật sử dụng trong hai tiểu thuyết

3.1.2.1. Ngôn ngữ dung dị, đời thường đậm đặc chất liệu dân gian và mang đậm phong vị miền núi

Đọc các tác phẩm của Ma Văn Kháng nói chung và truyện viết thiếu nhi nói riêng, người đọc đều có một cảm nhận chung là ông sở hữu một kho ngôn ngữ thật phong phú - kho ngôn ngữ của muôn mặt đời thường đậm đặc chất liệu dân gian và mang đậm phong vị miền núi. Đó là công phu, đồng thời cũng là tài năng gom góp một đời sống và viết hết mình mà trước tiên là sống sao cho thật ý nghĩa của tác giả. Ma Văn Kháng đã lăn lội vào cuộc sống đa dạng, phức tạp, đã trải mình vào cuộc sống của người dân miên núi để học lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ. Sau đó, vận dụng linh hoạt những thứ ngôn ngữ đó vào tác phẩm của mình sao cho thật ấn tượng để có thể chuyển tải nội dung một cách sâu sắc, hấp dẫn nhất và hàm súc nhất.

Trong hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời Chuyện của Lý, Ma Văn Kháng đã sử dụng rất nhiều chất liệu dân gian và chất liệu mang đậm phong vị miền núi. Trước hết là chất liệu dân gian với hệ thống ca dao, tục ngữ, thành ngữ…như một sự lắp ghép nhuần nhuyễn vào cấu trúc tác phẩm. Đặc biệt, sự gia tăng chất liệu dân gian đó lại được ông sử dụng đúng chỗ, đúng cách, đúng người nên nó phát huy hiệu quả ở mức cao nhất. Trong mỗi hoàn cảnh, với mỗi con người cụ thể thì những chất liệu ngôn ngữ mang đậm sắc thái dân gian đó lại được vận dụng với những mục đích giao tiếp khác nhau.

Ở tác phẩm Côi cút giữa cảnh đời, để khắc họa nỗi buồn đau, xót xa trước sự ra đi dằn vặt của mẹ Duy, Ma Văn Kháng sử dụng lời hát ru mang âm hưởng từ hai câu

thơ lục bát bất hủ trong Truyện Kiều: “Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang… Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” [24, tr. 29]. Để nói về khổ đau, bất hạnh của kiếp người thợ thuyền trong chế độ cũ, tác giả sử dụng những câu ca dao có tính biểu cảm cao: “Bốn giờ cắp nón đi ra - Mặt chó không biết, mặt gà cũng không” hoặc “Trăng kia còn có đêm rằm - Thấu chăng kiếp thợ tối tăm một đời” [24, tr. 54]. Để khẳng định sự trỗi dậy mạnh mẽ của những con người bị coi là yếu đuối, là thế yếu trong xã hội, Ma Văn Kháng vận dụng những câu ca dao với ý tứ độc đáo: “Chim chích mà ghẹo bồ nông - Đến khi nó mổ lại lạy ông tôi chừa” [24, tr. 51]. Để lật tẩy những con người đạo đức giả, đối lập với những biểu hiện bên ngoài và tâm địa bên trong, tác giả dẫn giải câu ca dao: “Vào thì bẩm bẩm thưa thưa - Ra thì văng tục có chừa ai đâu”. Để nói về tầm vóc của một con người có tài trí, nhà văn vận dụng một câu trong Truyện Kiều: “Một tay gây dựng cơ đồ - Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành”. Để chê bai những người đàn bà to béo, mặt nhỏ nhưng lại xấu xa, lăng nhăng, nhà văn nói: “Những người mặt nhỏ như niêu - Cái răng trắng ớn, chồng yêu cỡn cờ” hoặc “Thôi tôi chẳng lấy ông đâu - Ông đừng cạo mặt, cạo râu tốn tiền”…[24, tr.146]. Ma Văn Kháng sử dụng thứ ngôn ngữ ấy rất tài tình, luôn chiếm được cảm tình và sự mến mộ của độc giả.

Ngoài các câu ca dao, lời hát ru, Ma Văn Kháng còn sử dụng với mật độ dày đặc các câu thành ngữ, tục ngữ để diễn tả nội dung câu nói một cách cô đọng, hàm súc và giàu sắc thái biểu cảm như: “Tham con đỏ, bỏ con đen”, “Ác giả thì ác báo”, “Thất điên bát đảo”, “Bắc thang mà hỏi ông giời”, “Hồn xiêu phách lạc”, “Mèo vẫn hoàn mèo”, “Bát cơm rang sàng cơm thổi”, “Mắt la mày lét”, “Ma cũ bắt nạt ma mới”, “Giàu nứt đố đổ vách”…

Bên cạnh tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, thì ở tiểu thuyết Chuyện của Lý, Ma Văn Kháng cũng đã sử dụng một số lượng lớn chất liệu dân gian như các câu ca dao, câu đố, câu thành ngữ, tục ngữ …ở trong tác phẩm để khẳng định tình yêu thương, sự cưu mang, săn sóc của những tấm lòng nhân hậu đối với Lý. Chẳng hạn, để tạo sự âu yếm, ru cho trẻ ngủ ngon giấc trong lúc mẹ đi vắng hoặc bận công việc, tạo sự cảm thông từ đứa trẻ, Ma Văn Kháng đã vận dụng bài ca dao: “Cái ngủ mày ngủ cho lâu - Để mẹ đi cấy đồng sâu chưa về…” [28, tr. 82]. Để cho trẻ biết ơn những

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

người đã cưu mang mình, đã tạo ra sản phẩm để cho mình được hưởng thụ, Ma Văn Kháng lại vận dụng câu đố: “Ăn sống được - Ăn chín càng ngon - Gieo trồng không lên - Đố là cái gì? (hạt muối)” [28, tr. 269]. Để trẻ nhớ về cội nguồn, về các lễ hội, Ma Văn Kháng lại vận dụng các trò chơi truyền thống như: “Nu na nu nống; Thả đỉa ba ba; Rồng rắn lên mây [28, tr. 270]. Để giáo dục đạo đức trẻ sống theo lẽ phải và làm theo việc thiện, Ma Văn Kháng lại vận dụng vào kể các câu chuyện cổ xen lẫn với lời hát ru như truyện Tấm Cám, Thạch Sanh, Sự tích mặt trăng mặt trời…Vì ý nghĩa răn dạy đạo đức ở trong các câu chuyện thường bộc lộ ở việc ca tụng đức tính dũng cảm, sức mạnh thể chất, trí thông minh, tinh thần hữu nghị, đức hi sinh vì đồng loại, tinh thần trọng danh dự…Với tấm lòng trong sáng trẻ thơ, các em sẽ nhận được ở đây những bài học bổ ích về lối sống có mục đích cao đẹp. Ngoài ra, Ma Văn Kháng cũng còn sử dụng các câu thành ngữ, tục ngữ để diễn tả nội dung câu nói một cách cô đọng, hàm súc và giàu sắc thái biểu cảm như “Nghiêng nước nghiêng thành”, “tác oai tác quái”, “đục nước béo cò”, “thắt đáy lưng ong”…

Đặc biệt, ở trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, chất liệu dân gian được Ma Văn Kháng tin cậy đặt vào ngôn ngữ của bà nội cậu bé Duy - một người phụ nữ rất bản lĩnh, cứng cỏi và linh hoạt trong giao tiếp. Những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, những lối nói quen thuộc của dân gian được sử dụng rất nhiều, rất sắc sảo trong các tình huống giao tiếp có chất kịch tính cao, có liên quan đến sự sống còn trong cuộc sống của bà cháu Duy. Qua những tình huống đó mới thấy được tài ứng biến thần tình cứng cỏi và linh hoạt trong giao tiếp của người phụ nữ rất bản lĩnh này.

Nhân vật thiếu nhi qua hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng - 10

Những lời nói vận dụng từ ca dao, tục ngữ, thành ngữ …của bà với hai tên lật lọng, gian ác, cấu kết với nhau là tên Hứng và lão Luông rất sâu sắc, chắc chắn như đinh đóng cột. Nghe thì nó nhẹ nhàng nhưng thật ra nó đanh thép như phán xét của chủ tọa phiên tòa với bọn tội phạm lừa lọc. Đi vào những tình huống, những văn cảnh cụ thể mới có thể thấy hết được sự vận dụng sáng tạo và sức công phá thật mạnh mẽ của thứ ngôn ngữ lấy chất liệu từ dân gian rất độc đáo mà Ma Văn Kháng đã sử dụng rất nhiều trong truyện viết về thiếu nhi.

Ngoài những câu Kiều, câu chuyện cổ tích, câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ… Ma Văn Kháng còn sử dụng biện pháp nói ngược hay dùng từ ngữ xa xưa, cách nói

ngọng để tạo nên những đặc sắc và hài hước trong ngôn ngữ: “Dấm đài”, “hang có khồng!” [24]. “Một, không quần. Một, hai quần”; “lở lụ cười”…[28]. Cũng có lúc tác giả dùng những lời “thần chú” mang dấu ấn tâm linh hay dùng trong dân gian: “Chém đầu thằng Chích! Ních đầu thằng Chiếc! Bêu đầu ngọn tre!” [24, tr. 148].

Nếu như ở trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, chất liệu dân gian được Ma Văn Kháng tin cậy đặt vào ngôn ngữ của bà nội bé Duy, thì ở trong tiểu thuyết Chuyện của Lý, chất liệu mang đậm phong vị miền núi lại được Ma Văn Kháng gửi gắm, đặt trọn niềm tin vào ông Thòn, bà Pham - người Dao hiền lành, chất phác. Vì theo nhà văn, cuộc sống miền núi và con người miền núi cho ông rất nhiều lợi thế. Nếu “không có chất liệu thì tài năng mấy cũng chịu. Cũng như thế, cách biểu hiện đậm đà màu sắc dân tộc cũng có sẵn ở trong lời kể chuyện, giao tiếp của bà con. Có thể học ở đó, bổ sung làm giàu cho văn phong của mình”. Quả như thế, nhờ sự am hiểu sâu sắc về đời sống miền núi nên khi khám phá tiểu thuyết Chuyện của Lý của Ma Văn Kháng, người đọc sẽ được “sống” trong môi trường đậm chất miền núi bởi bao quanh ta là cả một thế giới sinh động những tên đất, tên người, những sự vật, sự việc, những sinh hoạt, những cách cảm cách nghĩ mang đặc trưng miền núi. Phả vào ta hơi thở miền núi nồng nàn, thuần hậu mà hoang dã, đơn sơ. Này là tên những miền đất lạ xa xôi mà ai đã đặt chân đến một lần thì không thể nào quyên như: Lao Táo Chải, Cồ Dề Chải, Thèn Phàng, Bản Ngồ… Những địa danh Tây Bắc ghi mỗi tên dưới tiểu thuyết Chuyện của Lý nói riêng và tất cả các truyện ngắn của Ma Văn Kháng nói chung trong thời kỳ đầu đã ghi dấu ấn nhà văn trẻ trong sự gắn bó hết mình với mảnh đất vùng cao này. Sau này, khi đã trở về miền xuôi, Ma Văn Kháng vẫn “không hề cắt đứt với những ngày sống đó”.

Có thể nói, sự sống động của ngôn ngữ trong văn chương Ma Văn Kháng viết về miền núi nói chung, trong đó có tiểu thuyết Chuyện của Lý đã khiến cho nhiều người đọc sách cứ đinh ninh tác giả là người dân miền núi. Bởi vì, Ma Văn Kháng đã gửi vào tác phẩm đó điệu hồn người vùng cao qua cách sử dụng lối phô diễn của người miền núi. Điều này không chỉ thể hiện qua ngôn ngữ nhân vật và ngay ngôn ngữ người trần thuật cũng đầy biến hóa: lạ mà quen, quen mà lạ với lối tư duy giàu tính hình tượng, ngôn ngữ giàu chất thơ, những so sánh ví von giàu hình ảnh… Nhưng

nó được thể hiện đậm nét nhất là qua nhân vật bà Pham. Đầu tiên phải kể đến là lời ru, lời hát hoặc câu chuyện kể của bà đối với bé Lý: “Ôi i a mây dỏm hộ lìn dòng (Cái ngủ mày ngủ cho ngoan) hay truyện cổ tích Ấn nhà trời [28, tr. 6, 12]. Lời ru ở đây mang đậm nét tư duy người miền núi trong lỗi diễn đạt mang tính khẩu ngữ: “Ôi i a”. Đó là lời nguyền rủa của bà Pham về con hổ què khi nó nhảy lên giường Lý nằm: “Hìa chú pết mày, hổ à!” [28, tr. 47]. Đó là lời của bà dạy bé Lý nói: “Cu đi (bà), tào nom che (con gà), tào chu (con chó), đàm mào (con hổ), dia, kiềm (người Dao), Phun tráng ôông! (Cháu yêu ông)… [28, tr. 85]. Sau khi Lý biết nói, Lý không chỉ nói tiếng kinh mà còn nói cả tiếng Dao rất giỏi. Lý cất tiếng nói rất to hỏi một bà đang địu thóc: “Cu nhía nải hái khấu diềm nhé? (Bà địu thế có khó nhọc không ạ?) [28, tr. 98]. Đúng là ngôn ngữ nào, sắc thái ấy. Ngoài lời ru, lời hát, câu chuyện cổ tích, từ ngữ Dao thông tục....thì cái cảnh mẹ Nhu đi đón con đi thi học sinh giỏi về ốm, thời gian cũng được đo bằng cảnh sắc Dao, chuyện bà Pham bắt mạch cho Dương…cũng đều gắn với yếu tố văn hóa Dao. Tuy nhiên, ở miền núi vùng cao này còn hiện lên rõ nét qua: Cảnh mùa xuân, cảnh múa sư tử, khu vườn thuốc của bà Pham, cảnh đi kiếm củi của mẹ con Lý, cảnh Lý đi thi về hay cái chết của ông Thòn trong mối quan hệ với con mèo Nhung, con Mực, cảnh rừng già có con hổ, chó sói, cọp què…Mặc dù sử dụng hệ thống từ ngữ và lối phô diễn mang đặc trưng cách cảm, cách nghĩ của người dân tộc miền núi, nhưng Ma Văn Kháng không hề lạm dụng. Nhà văn biết cách lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ miền núi phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng truyện, từng nhân vật. Có thể khẳng định: “Sử dụng ngôn ngữ và cách viết sao cho có được màu sắc bản địa mà vẫn không xa cách với lối diễn đạt hiện tại” là một ưu điểm lớn của Ma Văn Kháng.

Như vậy, với cách sử dụng ngôn ngữ bình dị, đời thường đậm chất liệu dân gian và mang đậm phong vị miền núi trong hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý. Ta thấy, Ma Văn Kháng đã tạo nên sức hút đặc biệt với một nét riêng độc đáo trong những trang văn viết về thiếu nhi của mình. Đồng thời, cùng với việc sử dụng ngôn ngữ lạ, độc đáo làm cho các em khi đọc những câu chuyện của mình, các em vừa thấy cảm động về nội dung và tình tiết của câu chuyện, vừa cảm thấy rất thú vị khi học được rất nhiều lời hay ý đẹp từ những câu chuyện cổ tích, câu

ca dao, thành ngữ, tục ngữ, từ ngữ dân tộc Dao…mà tác giả đã đưa vào tác phẩm, làm cho tác phẩm của mình luôn ngân vang và luôn sống mãi trong lòng độc giả.

3.1.2.2. Ngôn ngữ giàu chất thơ, chất biểu cảm

Bên cạnh ngôn ngữ dung dị, đời thường đậm đặc chất liệu dân gian và mang đậm phong vị miền núi. Sức hấp dẫn của hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời Chuyện của Lý còn là ở chất mượt mà, tha thiết được tạo từ hệ thống ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm. Không chỉ đưa độc giả đến với những cảnh đời và tình người xúc động mà với cảm quan tinh tế của người nghệ sĩ, với bút pháp miêu tả theo kiểu chấm phá tài hoa, Ma Văn kháng còn đưa người đọc xích lại gần hơn với thiên nhiên cây cỏ, với những biến chuyển kì diệu của đất trời qua những trang văn dạt dào xúc cảm.

Nghĩa trang Yên Kỳ vào một buổi sớm đầu xuân heo heo lạnh được nhà văn miêu tả bằng những chi tiết rất ấn tượng qua những lớp ngôn từ giàu sức gợi tả. Từ mặt đất đến chân mây đâu đâu cũng mang một màu sắc hư ảo, xa xăm như một cõi hư vô, thoát tục: “Mặt đất lấm chấm những búp tơ cỏ nõn ánh vàng. Trần mây lồng lộng, thanh khiết như có ai vừa quét dọn, lưu lại vài nét mây phất nhẹ như dấu chổi lúa mềm mại ngoài sân sớm” [24, tr. 85]. Đoạn văn chỉ gồm có hai câu nhưng cả một không gian mênh mông, linh thiêng của khu nghĩa trang được hiện lên qua các đường nét cỏ cây, mây trời và một loạt các từ láy giàu sức gợi hình, gợi cảm: “lấm chấm”, “nõn nà”, “mềm mại”, “lồng lộng”.

Theo Ma Văn Kháng, khi nhà văn sử dụng ngôn ngữ một cách đắc hiệu thì lúc đó ngôn ngữ lên men, nó tỏa hương, nó rủ rê, dẫn dắt, nó quyến rũ ta là cái hồn của câu chuyện. Thật vậy, đọc những đoạn văn tả về thiên nhiên giàu chất thơ, chất biểu cảm trong tác phẩm của Ma Văn Kháng nói chung và trong hai tiểu thuyết viết về thiếu nhi Côi cút giữa cảnh đời và Chuyện của Lý nói riêng, người đọc hoàn toàn bị ngôn ngữ mê hoặc dẫn dắt như đang rơi vào trạng thái thôi miên, như đang thăng hoa cùng trí tưởng tượng bởi cách dùng ngôn ngữ mềm mại, duyên dáng, uyển chuyển của nhà văn.

Nhưng cũng có lúc nhà văn lại đưa người đọc đến với những hương vị, âm thanh, hình ảnh thân quen và ấm áp trên mặt đất vào một buổi chiều tối mùa hè trong

khung cảnh nên thơ: “Hương ngải về chiều càng nồng. Muỗi bay tụ từng đám trên mảnh trời chiều đang ngả màu hoa cà. Mấy con dơi vẽ những đường nét rối rít”, bỗng nhiên tác giả lại chuyển đổi hướng nhìn không gian lên tận trời cao: “Tít trên cao, trời xanh mỗi lúc một đậm đặc. Rồi những chấm sao như những mũi kim li ti hiện lên, đưa ta vào cõi mung lung huyền bí xa thẳm…Trên kia còn là cõi tiên, nếu quẻ thẻ nhà chùa nói đúng, thì chính là nơi bà tôi sinh ra. Bà tôi là cô tiên, vì trót lỡ đánh chén ngọc mà bị vua cha bắt xuống ở dưới trần này, bà xuống trần để đỡ nâng dắt dìu hai đứa trẻ côi cút chúng tôi; cuộc sống của chúng tôi lắm lúc cũng kỳ lạ có phép màu là vì vậy” [24, tr. 210]. Chất thơ, chất biểu cảm ở đây không chỉ được tạo nên nhờ sự kiến tạo của thứ ngôn ngữ đẹp mê hồn với những hình ảnh rất lạ:“mảnh trời chiều đang ngả màu hoa cà”,“đường nét rối rít”,“những chấm sao như những mũi kim li ti hiện lên” mà chất thơ, chất biểu cảm đó còn được tạo nên nhờ thế giới tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, giàu tình yêu thương, kính trọng bà của cậu bé Duy.

Cũng như Côi cút giữa cảnh đời, ngôn ngữ trong Chuyện của Lý cũng là một thứ ngôn ngữ ngập tràn chất thơ và đậm đặc chất biểu cảm. Chất thơ được tạo nên từ vẻ đẹp diễm lệ của nhiều miền không gian: không gian mảnh vườn thuốc ngát hương của bà Pham, không gian miền núi bao la với cây cỏ, chim muông rất sống động.

Miêu tả thiên nhiên bằng giọng văn êm nhẹ như ru và sức tỏa sáng của lớp ngôn từ giàu sức gợi cảm: “Ấy là một buổi trưa mùa thu, thời điểm đẹp nhất ở làng Dao Thèn Phàng. Khi ấy, nắng thì vàng ánh như tơ lụa trải trên cây lá trong khu vườn thuốc nam. Còn không gian thì bằng lặng êm đềm đến mức có thể nghe được con ong soi vo ve khi tỏ khi mờ và tiếng ngáy của con mèo Nhung ngủ cạnh Lý trong nhà” [28, tr. 88]. Đoạn văn có ba câu, nhưng cả một không gian bằng lặng êm đềm ở khu vườn thuốc nam của bà Pham được hiện lên qua màu sắc (vàng ánh), âm thanh (vo ve) và từ láy giàu sức gợi cảm (êm đềm). Mặt khác nghệ thuật so sánh cũng được tác giả sử dụng hiệu quả tối đa, nhằm góp phần làm cho ngôn ngữ trở nên mềm mại hơn để từ đó khu vườn thuốc nam của bà Pham trở nên có linh hồn hơn. Nhưng khi nhìn vào khu vườn thuốc này, bà Pham lại “ngây ngây trong hoài niệm về những ngày đã rất xa”. Đó là những ngày tháng, những giây phút được sống hạnh phúc bên người yêu với anh Quyết Tâm.

Rồi vườn thuốc nam của bà Pham còn đẹp hơn, mê hồn hơn khi hằng ngày bà chăm bẵm bé Lý, nhìn vào “khuôn mặt trắng hồng như cánh hoa sen nở” của bé Lý đã làm cho bà Pham liên tưởng đến vườn thuốc của mình cái gì cũng đẹp và hấp dẫn: “Ô, khu vườn thuốc sao nhiều loại cây vừa đẹp hình dáng vừa tỏa hương thơm. Lá cây tế tử tròn xoe như hình đồng xu. Cây huyền sâm lá to bằng bàn tay cạnh cây gấu tầu lá chĩa như hình chiếc đinh ba nho nhỏ. Dây leo hà thủ ô phơ phất phiến lá hình trái tim quấn quanh cây cù làng, chen lấn những chùm quả màu hồng của cây ích mẫu … Xanh tốt um tùm chạy từng luống dài là sài đất, kinh giới, tía tô, đỏ ngọn, cỏ xước, cà gai, thiên môn, bách hợp, nhọ nồi…” [28, tr. 93]. Bức tranh thiên nhiên ấy là chất thơ tô điểm để làm giảm dịu bớt đi nỗi đau đớn của bà Pham khi người yêu đã hi sinh trên chiến trường và làm bừng sáng lên niềm vui trong cuộc đời của bà với những ngày sống bên bé Lý. Cho nên, ngôn ngữ ở đây không chỉ đơn thuần là một thứ ngôn ngữ thuần túy mà nó đã trở thành cuộc chơi về màu sắc và âm thanh, trở thành một thứ ngôn ngữ biết nói, có sức lay động lạ lùng.

Thiên nhiên tươi đẹp và trong lành càng trở thành nên thơ hơn, tuyệt diệu hơn khi nó thật sự tìm được mối giao hòa từ lòng người: “Mùa xuân đã thực sự trở về với những cành bàng trên sân trường nhấp nhánh những chiếc búp non trông từa tựa hình chiếc ngòi bút chĩa ngọn lên trời. Một đàn chim chích chòe từ lúc nào đã bay đến vườn thuốc nam của bà Pham rúc ra rúc rích, thay nhau bắt sâu, trong các lùm cây bạch đồng nam ngù hoa màu trắng ngà… Mùa xuân với tia nắng …đang rụt rè trở về nhảy nhót trong chậu nước ngâm bồ kết vàng óng của bà ngoại phơi trên sân. Mùa xuân đang về với làn nắng âm phủ trùm trên khăn áo mẹ Nhu…[28, tr. 386].

Ngôn ngữ giàu chất thơ sẽ làm cho thiên nhiên trở nên sống động, diệu kỳ hơn. Từ đó, tác phẩm không chỉ giúp các em thấu hiểu và đồng cảm với những cảnh huống, những số phận không may trong cuộc sống mà còn giúp các em bồi đắp thêm trí tưởng tượng và tình yêu với thiên nhiên đất trời.

Bên cạnh ngôn ngữ bình dị, đời thường đậm chất liệu dân gian và mang đậm phong vị miền núi; ngôn ngữ giàu chất thơ, chất biểu cảm, truyện viết về thiếu nhi của Ma Văn Kháng qua hai tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời Chuyện của Lý còn sử dụng cả những từ ngữ Hán Việt như: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, “tứ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/09/2023