Tiềm Năng Của Phê Bình Nữ Quyền Sinh Thái Trong Nghiên Cứu Văn Học


Chủ nghĩa nam quyền trung tâm

(Androcentrism)

Chủ nghĩa nhân loại trung tâm

(Anthropocentrism)

(3) Phủ nhận hoặc bỏ qua những giá trị

của phụ nữ.

(3) Các giá trị xác đáng duy nhất là giá trị

con người.

(4) Đàn ông là tiêu chuẩn để đánh giá các

hiện tượng.

(4) Con người là tiêu chuẩn để đánh giá

các hiện tượng.

(5) Xuất phát từ tư duy phân cấp giá trị bao gồm các thứ bậc sau: đàn ông/phụ nữ, văn hóa/bản năng, linh hồn/thể xác, lý trí/

cảm xúc, công nghệ/lao động...

(5) Xuất phát từ tư duy phân cấp giá trị bao gồm các thứ bậc sau: con người/thiên nhiên, văn hóa/tự nhiên, linh hồn/thể xác,

lý trí/cảm xúc, con người/động vật...

(6) Các giá trị nhị nguyên đối lập được xác định là: đàn ông – phụ nữ, bản năng – văn hóa, tâm trí, lý trí – cảm xúc, công nghệ –

lao động...

(6) Các giá trị nhị nguyên đối lập được xác định là: con người – tự nhiên, văn hóa – thiên nhiên, lý trí – cảm xúc, con người –

động vật..

(7) Đàn ông thực thi quyền lực đối với phụ

nữ.

(7) Con người thực thi quyền lực đối với

thế giới tự nhiên.

(8) Đặc quyền của đàn ông là công việc

địa vị, bạo lực và quyền hạn.

(8) Đặc quyền của con người là luân lý,

chủ động, tính toàn vẹn và quyền lực.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 268 trang tài liệu này.

Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Tự nhiên và nữ giới trong văn xuôi nữ Việt Nam đương đại nhìn từ nữ quyền luận sinh thái - 4


Qua bảng này chúng ta có thể thấy chủ nghĩa nhân loại trung tâm và chủ nghĩa nam quyền trung tâm có sự liên kết với nhau thông qua một sự logic của cơ chế thống trị và một khung khái niệm áp bức. Xuất phát từ cấu trúc trên, nhân vị đàn bà đã bị suy giảm giá trị nghiêm trọng, họ và tự nhiên cùng nằm trên một tuyến và đều chịu sự áp bức thống trị của nam giới. Sự tương đồng dễ dàng nhận thấy ở thuyết nhân loại trung tâm và thuyết nam giới trung tâm là những thực thể hợp lý và lý trí trái ngược với tính thể xác, đa cảm, vật chất, vụn vặt, không chắc chắn và chủ quan. Cả tự nhiên và nữ giới đều kết hợp những đặc điểm xấu xa này, nhân loại trung tâm và đàn ông trung tâm được kỳ vọng sẽ vượt qua thiên nhiên và đàn bà.

Từ việc tìm thấy điểm tương đồng giữa nhân loại (con người)/đàn ông và nữ giới/tự nhiên chúng ta có thể khẳng định sự liên quan, tính kết nối của chủ nghĩa sinh thái và chủ nghĩa nữ quyền ở đặc tính giải cấu trúc nhị phân. Các nhà nữ quyền sinh thái nhận ra sai lầm nghiêm trọng trong nội hàm của chủ nghĩa nhân loại trung tâm và chủ nghĩa nam giới trung tâm đã dẫn đến những nguyên nhân của nguy cơ sinh thái, bất bình đẳng giới. Val Plumwood cho rằng chủ nghĩa nhân loại trung tâm và nam quyền trung tâm về


cơ bản đã tạo ra vô số ảo tưởng trong niềm tin và nhận thức của con người. Những ảo tưởng của chủ nghĩa nhân loại trung tâm mang lại là thiên nhiên bị hạ cấp, vô dụng, bị từ chối, vô trật tự và thụ động... Thì chủ nghĩa nam quyền trung tâm đã tạo ta những “kịch bản” cho nam tính và nữ tính. Sự thật, không phải tất cả nam giới cũng như là tất cả nữ giới đều giống hệt như nhau, cả nam giới lẫn nữ giới đều không theo một nguyên bản được gán cho giới tính riêng của họ một cách mù quáng. Họ có thể vượt qua rào cản giới tính đó. Chủ nghĩa nam giới trung tâm che giấu sự thật rằng mọi người thực sự độc lập, kết nối một cách hợp lý và tình cảm. Đàn ông và phụ nữ bị ngăn cản phát huy hết khả năng của họ như con người. Đàn ông và phụ nữ phải kìm nén những năng lực nguyên thủy vốn có để phù hợp với kịch bản của chính họ. Chẳng hạn, bản sắc và đức tính của nam giới là đối lập với cảm xúc và những đặc tính của nữ tính. Chính vì lẽ đó các nhà nữ quyền sinh thái chủ trương giải cấu trúc triệt để chủ nghĩa nhân loại trung tâm để giảm nguy hại đối với giới tự nhiên và những tổn thương đối với nữ giới. Không chỉ phê phán chủ nghĩa nhân loại trung tâm, các nhà nữ quyền sinh thái cũng lên án chủ nghĩa nam giới trung tâm bởi đây là sự phái sinh của chủ nghĩa nhân loại trung tâm. Họ cho rằng điểm giống nhau trong cơ sở triết học của hai lý thuyết này là đều lấy sự đối lập nhị nguyên của con người và tự nhiên, chủ thể và khách thể, thể xác và tâm hồn, tình cảm và lý trí làm lý luận triết học và phương thức tư duy. Ngược lại, lý luận của chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái và chủ nghĩa nữ quyền sinh thái đều lấy việc xóa bỏ sự đối lập nhị nguyên làm cơ sở triết học:

Từ việc phơi bày sự giống nhau của logic áp bức đối với tự nhiên và phụ nữ của tư tưởng chủ nghĩa nhân loại trung tâm, thế giới quan nam tính và tư tưởng nhị nguyên luận, trào lưu này phản đối chủ nghĩa nhân loại trung tâm và chủ nghĩa nam giới trung tâm, chủ trương thay đổi tư tưởng con người thống trị tự nhiên. Nó phê phán chế độ phụ quyền; phản đối các quan niệm dẫn đến sự bóc lột, thống trị, tấn công; ca ngợi bản chất nữ tính (nhưng không theo chủ nghĩa bản chất), mục tiêu là xây dựng một tư tưởng mới theo nguyên tắc của chủ nghĩa sinh thái và chủ nghĩa nữ quyền. (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017b).

Các nhà phê bình nữ quyền sinh thái đều cho rằng: “nhân loại” trong chủ nghĩa nhân loại trung tâm không hẳn là “tất cả mọi người”, mà chỉ là “đàn ông”, đặc biệt là “đàn ông da trắng”; còn phụ nữ, người da màu, giai cấp công nhân, người dân của những nước nghèo nàn lạc hậu thuộc thế giới thứ ba và những dân tộc nhỏ khác đều là nạn nhân trực tiếp của nguy cơ sinh thái và văn hóa phụ quyền. Vì thế, chính xác hơn, nên gọi nguồn gốc của nguy cơ sinh thái là chủ nghĩa nam giới trung tâm thay cho chủ nghĩa nhân loại trung tâm. Cần nói thêm, các nhà nữ quyền sinh thái chủ trương đối lập với xu hướng


nhân loại trung tâm, nam giới trung tâm nhưng không chủ trương lấy nữ giới trung tâm bởi: “Chúng ta không thể thoát khỏi điểm nhìn của con người và không thể di chuyển vào điểm nhìn khác, nhưng chúng ta có thể trở nên quan tâm đối với sự tồn tại của những cái nhìn khác, ít nhất là một động tác trong tưởng tượng, đặt hệ thống sinh thái, chứ không phải là con người vào trung tâm” (Kerridge, R., 1998), họ đề cao nguyên tắc “lệch tâm” nguyên tắc “tản quyền”. Các nhà nữ quyền sinh thái hoài nghi và phản đối quyết liệt nguyên tắc “hướng tâm” “tập quyền” của thuyết nhân loại trung tâm, họ chỉ ra những sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa nhân loại trung tâm trong nội hàm của chủ nghĩa hiện đại đã dẫn đến nguyên nhân của nguy cơ sinh thái và bất bình đẳng giới. Vì vậy, chỉ có thể thông qua giải cấu trúc triệt để chủ nghĩa nhân loại trung tâm mới làm giảm đi sự nguy hại đối với tự nhiên và nữ giới.

1.1.4. Tiềm năng của phê bình nữ quyền sinh thái trong nghiên cứu văn học

1.1.4.1. Phê bình nữ quyền sinh thái (ecofeminist criticism)

Phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái (ecofeminist literatury criticism) ra đời vào thập niên 90 của thế kỷ XX và là bước phát triển của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái. Nếu phê bình sinh thái nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên, phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ góc độ giới tính thì phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái là một góc nhìn mới mẻ cho việc giải quyết nguy cơ sinh thái và vấn đề bất bình đẳng giới. Từ vấn đề con người – tự nhiên, phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái còn mở rộng tầm nhìn đến các vấn đề khác như giới tính, chủng tộc, giai cấp, công bằng, môi trường... Ngoài ra, lý thuyết này còn xây dựng các điển hình nam tính và nữ tính phản truyền thống có trí tuệ sinh thái (ecological wisdom) và cảm quan sinh thái (ecological sensibility)... Vì vậy, phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái là một bước khai phá và phát triển sâu hơn, cao hơn so với phê bình nữ quyền và phê bình sinh thái.

Trong quá trình phát triển, chủ nghĩa nữ quyền sinh thái và lý luận văn học cùng hỗ trợ và tương tác lẫn nhau để cung cấp nền tảng cần thiết biến phương pháp phê bình nữ quyền và phê bình sinh thái thành một một lý thuyết phê phán áp dụng cho cả mối quan hệ giữa tự nhiên và nữ giới. Phê bình văn học nữ quyền sinh thái đã thu hút một loạt các phương pháp tiếp cận liên ngành như: Phê bình nữ quyền (Feminist), Phê bình sinh thái (Ecocricism), Luân lý học trái đất (The land ethic), Thuyết giải phóng động vật (Animal liberation),... tạo một cơ sở lý luận và quan niệm cho việc xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên. Lý thuyết đã chín muồi cộng với bối cảnh môi trường sinh


thái trên trái đất này bị suy thoái nghiêm trọng, phong trào nữ quyền phát triển mạnh mẽ, các nhà nữ quyền sinh thái tiến hành kết hợp vấn đề môi trường và vấn đề phân biệt giới trong nghiên cứu văn học. Từ đó, chủ nghĩa nữ quyền sinh thái ở Mỹ bắt đầu xâm nhập vào lĩnh vực văn học. Naomi Guttman trong tiểu luận Chủ nghĩa nữ quyền trong nghiên cứu văn học (Ecofeminism in Literary Studies) đã đưa ra khái niệm về phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái như sau:

Phê bình văn học từ nữ quyền sinh thái khai quật các quan điểm của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái trong tác phẩm văn học, nhất là tác phẩm viết về tự nhiên; từ góc nhìn của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái để đọc tác phẩm văn học, chủ yếu là tác phẩm văn học nữ quyền; định giá lại các sáng tác của văn học nữ và sáng tác tự nhiên vốn bị xếp vào thể tài văn học bên lề; thông qua việc vận dụng lý luận văn học nữ quyền sinh thái để đưa sáng tác tự nhiên vào hàng ngũ văn học kinh điển truyền thống; tham khảo thêm về phê bình nữ quyền, từng bước xây dựng lý luận phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái. (Guttman, N., 2002, tr. 41).

Ở Việt Nam, phê bình nữ quyền sinh thái là một khuynh hướng nghiên cứu văn học mới được giới thiệu, hơn nữa, bản thân nó cũng là một khuynh hướng nghiên cứu văn học chưa hoàn toàn định hình, còn đang trong quá trình điều chỉnh, hoàn thiện. Cơ sở lý luận của phê bình nữ quyền sinh thái là sự hài hòa, bình đẳng giữa con người và tự nhiên, nam giới và nữ giới, vừa đảm bảo lợi ích của con người, vừa đảm bảo lợi ích sinh thái. Phê bình sinh thái vận dụng các phương pháp nghiên cứu của phê bình nữ quyền và phê bình sinh thái để xử lý văn bản văn học, vừa đảm bảo tính thực tiễn, vừa đảm bảo tính thẩm mỹ. Phạm Ngọc Lan bước đầu đã đưa ra khả năng ứng dụng của phê bình nữ quyền sinh thái trong nghiên cứu văn học và khẳng định tính liên ngành cũng như đặc trưng cơ bản của của nó:

“Các nhà phê bình nữ quyền sinh thái tập trung nghiên cứu nhiều vấn đề, từ nhân văn đến hậu nhân văn, từ khai phóng đến cấp tiến, từ bản chất luận đến kiến tạo luận. Tuy nhiên nền tảng chung cơ bản của họ là khẳng định rằng các cấu trúc phụ quyền biện hộ cho sự thống trị của mình thông qua các đối lập lưỡng phân, bao gồm nam/ nữ, trí tuệ/cơ thể, người/động vật, tinh thần/ vật chất, văn hoá/ tự nhiên, logic/ hỗn mang, da trắng/ da màu, v.v..” (Phạm Ngọc Lan, 2016).

Nguyễn Thị Tịnh Thy cũng đã xác lập cơ sở lý luận của khuynh hướng nghiên cứu này, đồng thời thử tìm ra hướng thao tác nghiên cứu để có thể vận dụng vào thực tiễn văn học nước nhà. Tác giả định nghĩa phê bình nữ quyền sinh thái theo nghĩa rộng như sau:


Phê bình văn học chủ nghĩa nữ quyền sinh thái hiểu theo nghĩa rộng là một diễn ngôn gắn với chính trị, phân tích những kết nối mang tính khái niệm giữa việc đối xử với phụ nữ và thế giới phi nhân, vừa là sự mở rộng của phê bình sinh thái qua lĩnh vực nghiên cứu về giới, vừa là một trào lưu thời đại do phong trào môi trường và phong trào nữ quyền hợp thành. (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017b).

Vấn đề cốt lòi của phê bình nữ quyền sinh thái là cái nhìn phản tư thuyết nhị nguyên cho rằng: đàn ông và nam tính gắn liền với văn hóa và văn hóa có giá trị, trong khi phụ nữ và nữ tính gắn liền với thiên nhiên và cả hai đều bị mất giá. Những định giá được liên kết này dẫn đến hệ thống phân cấp, sau đó được sử dụng để biện minh cho sự thống trị của phụ nữ, tự nhiên và tất cả những người có liên quan. Phơi bày những mối liên kết khái niệm này trong văn học và văn hóa cũng như tư tưởng chính trị, truyền thông, giáo dục và các khía cạnh khác của xã hội là một thành phần quan trọng của phê bình nữ quyền sinh thái.

Tóm lại, phê bình nữ quyền sinh thái là sự tích hợp giữa phê bình sinh thái và phê bình nữ quyền để đưa ra những kiến nghị về vấn nạn sinh thái và bất bình đẳng giới. Phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái lại là một kiểu phê bình sinh thái vì nó hoài nghi, giải cấu trúc, lật đổ chủ nghĩa nhân loại trung tâm - gốc rễ của những nguy cơ sinh thái. Nó hướng con người trở về với cái chân, với thiên tính tự nhiên, xây dựng sinh thái tinh thần của con người, khôi phục thế giới quan “thiên nhân hợp nhất”. Nó nhấn mạnh mối quan hệ thống nhất giữa con người và tự nhiên, giải cấu trúc phương thức tư duy đối lập nhị nguyên giữa nam giới/nữ giới, văn hóa/tự nhiên, tinh thần/thể xác, lý trí/tình cảm... trong văn hóa truyền thống; xác lập phương thức tư duy phi nhị nguyên và quan niệm phi đẳng cấp. Phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái lại là một kiểu phê bình nữ quyền, nó hoài nghi, giải cấu trúc, lật đổ văn hóa của chế độ phụ quyền trung tâm vốn đặt phụ nữ ở vị trí “bên lề”, “kẻ khác” để khống chế, thống trị và áp bức phụ nữ. Khuynh hướng phê bình này công kích vào thế giới quan chủ nghĩa nam giới trung tâm, phơi bày và phê phán sự áp bức song trùng đối với tự nhiên và phụ nữ, đào sâu giá trị sinh thái, đặc trưng văn học và nội hàm thẩm mỹ của lối viết tự nhiên nữ tính, so sánh sự khác biệt giữa lối viết tự nhiên của hai giới nam và nữ để từ đó hình thành một khuynh hướng phê bình văn học mới. Sự kết hợp giữa phê bình sinh thái và phê bình nữ quyền là bởi sự tương đồng về vận mệnh của nữ giới và tự nhiên, đàn ông nô dịch phụ nữ bắt đầu từ việc nô dịch tự nhiên. Sự nô dịch này được thực hiện toàn diện, triệt để trong xã hội tư bản thời đại công nghiệp hóa. Mặt khác bản chất của hai lý thuyết này đều là đặc tính giải cấu trúc. Phê bình sinh thái chống lại chủ nghĩa nhân loại trung tâm cực đoan hẹp hòi, còn phê bình nữ quyền chống lại phê phán chủ nghĩa nam quyền trung tâm, giải phóng phụ nữ, xóa bỏ đối


lập nhị nguyên nam – nữ. Như vậy, phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái tích hợp trong nó sự đa dạng của nhiều lý thuyết có liên quan đến nhau. Nó sử dụng điểm nhìn đa trùng vừa tự nhiên, môi trường và giới tính để tiến hành phê bình văn học đồng thời liên kết các nhân tố đó lại với nhau để làm nên một nguồn nội lực phản tư, giải cấu trúc quan niệm đối lập nhị nguyên, phê phán chủ nghĩa nhân loại trung tâm và văn hóa chế độ phụ quyền trung tâm từ đó giải phóng vị trí “kẻ khác” và “bên lề” của tự nhiên và nữ giới, thức tỉnh ý thức chỉnh thể sinh thái và ý thức nam nữ bình đẳng của mọi người, xây dựng một xã hội bình đẳng, hài hòa giữa nam và nữ, giữa các giống loài, giữa xã hội loài người với vạn vật trong tự nhiên, một thế giới rực rỡ phồn vinh với đa dạng văn hóa, đa dạng sinh vật.

1.1.4.2. Đặc trưng của phê bình nữ quyền sinh thái trong nghiên cứu văn học

Phê bình nữ quyền sinh thái hấp thu các tiền đề lý luận của nhiều ngành khoa học khác nhau kết hợp với phương thức nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu riêng biệt để tạo nên những đặc trưng của mình cụ thể như sau:

- Làm sáng tỏ mối quan hệ giữa nữ giới và tự nhiên, khám phá những cách mà những mối quan hệ này được hình thành và miêu tả trong văn bản văn học. Chẳng hạn, đào sâu những nội dung phong phú về hình tượng kép người mẹ – trái đất (như giả thuyết Gaia) trong tác phẩm văn học, miêu tả và phân tích những tồn tại bản chất của nữ giới. Một số nhà phê bình nữ quyền sinh thái dựa vào văn học, đặc biệt là văn bản sử dụng lối viết tự nhiên (nature writing) để giải mã hệ thống ký hiệu quyển của biểu tượng ngôn ngữ tự nhiên và phụ nữ. Họ cũng tập trung vào ngôn ngữ, đặc biệt là các mối liên hệ mang tính biểu tượng về nữ giới và tự nhiên. Mặt khác, việc xem xét lại việc mô tả về tự nhiên và nữ giới bằng một hệ thống ngôn ngữ chung còn để làm rò đó là mối quan hệ tương đồng hay là chỉ tô đậm thêm sự mất mát giá trị của nữ giới. Từ đó, chú ý tới việc không duy trì ngôn ngữ theo chủ nghĩa phân biệt giới tính và quyền lực của diễn ngôn thống trị cũng là một mục tiêu của phê bình nữ quyền sinh thái.

- Phê phán các hình thức phân cấp và thống trị như: chủ nghĩa nhị nguyên, chủ nghĩa nhân loại trung tâm, chủ nghĩa nam giới trung tâm, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dị tính... ủng hộ tính trung tâm của đa dạng xã hội và đa dạng sinh học tồn tại trên hành tinh này. Nhấn mạnh sự phát triển hài hòa bình đẳng giữa con người và tự nhiên, nam giới và nữ giới, coi đó là tiền đề và cơ sở để con người có thể tiếp tục duy trì sự phát triển.

- Dùng điểm nhìn song trùng của sinh thái và nữ quyền để tiến hành nghiên cứu văn học; đi tìm sự mất mát của tự nhiên và nữ quyền trong tác phẩm văn học; khảo sát vị trí “kẻ


khác”, “bên lề”, “câm lặng” của tự nhiên và nữ giới trong văn bản; kêu gọi mọi người hiểu và tôn trọng tự nhiên và nữ giới; thức tỉnh ý thức bảo vệ tự nhiên và ý thức bình đẳng nam nữ. Salleh cũng xem phê bình nữ quyền sinh thái không phải là một nhánh đơn lẻ, tuyến tính mà là một cách tiếp cận có nhiều nhiệm vụ hợp nhất giữa vấn đề nữ quyền và vấn đề tự nhiên, ngoài ra còn có mối quan hệ với sinh thái học chiều sâu và chủ nghĩa Mác:

Không giống như các lý thuyết về môi trường nói chung và sinh thái học chiều sâu nói riêng, chủ nghĩa nữ quyền sinh thái không theo đuổi đối tượng của nó bằng một phương pháp phê bình tuyến tính đơn giản. Nó có nghĩa vụ tham gia vào một quá trình biện chứng zig-zag giữa (a) nhiệm vụ nữ quyền là thiết lập quyền có tiếng nói chính trị của phụ nữ; (b) nhiệm vụ sinh thái là phá vỡ đặc tính gia trưởng trong hệ thống chính trị bằng cách tháo gỡ mối quan hệ thống trị của con người với tự nhiên; và (c) nhiệm vụ nữ quyền sinh thái là chứng minh cách sống khác biệt của phụ nữ trong mối quan hệ với thiên nhiên. (Salleh, A., 1992, tr.197).

- Nhấn mạnh tính cấp bách của vấn đề chuyển đổi tư tưởng trong nguy cơ môi trường và bất bình đẳng giới vì những nguy cơ mà tự nhiên và phụ nữ hiện đang gặp phải không đáng sợ bằng hệ thống tư tưởng dẫn đến những nguy cơ ấy. Vậy nên, cần phải chữa lành các cá nhân, văn hóa và hệ thống bị tha hóa, thông qua các thực hành tâm linh, tâm lý, văn học, nông nghiệp, kinh tế, chính trị, tháo gỡ các thể chế áp bức và xây dựng các mạng lưới bình đẳng, nhân văn, nhìn nhận lại văn hóa nhân loại. Văn học là một kênh quan trọng trong việc góp phần chuyển đổi hệ tư tưởng này. Phát triển một thực tiễn văn học theo chủ nghĩa nữ quyền sinh thái giúp “hình thành và phát triển một khuôn khổ cụ thể dành cho những sáng tác của nữ giới” (Guttman, 2002, tr.44), hơn thế, còn động viên phụ nữ tích cực tham gia các phong trào sinh thái và các phong trào nhằm bảo vệ quyền lợi cho chính mình.

- Đối tượng của phê bình nữ quyền sinh thái không chỉ là những tác phẩm đương đại mà nó còn hướng đến những tác phẩm văn học truyền thống, từ đó khơi dậy những giá trị nhân văn trong mối quan hệ giữa tự nhiên và nữ giới từng bị chôn vùi.

- Nội hàm của phê bình nữ quyền sinh thái mang đặc trưng kết nối đa nguyên. Phê bình nữ quyền sinh thái là sự tích hợp giữa phê bình nữ quyền và phê bình sinh thái. Mục đích cơ bản của phê bình nữ quyền là phủ định sự thống trị và áp bức của nam giới đối với nữ giới. Mục đích cơ bản của phê bình sinh thái cũng là phủ định nguyên tắc lý tính của chủ nghĩa hiện đại – một nguyên tắc đề cao tính hiện đại biểu hiện ở tập quyền hóa, quan liêu hóa, khoa học kỹ thuật hóa, công nghiệp hóa, đô thị hóa, cơ giới hóa... Từ logic của sự thống trị, phê bình nữ quyền sinh thái cũng cần đặt trong sự kết nối với chủ nghĩa phân biệt


chủng tộc, chủ nghĩa kinh điển, định kiến và phân biệt đối xử với ngưới khuyết tật, định kiến và phân biệt tuổi tác, chủ nghĩa độc tôn dị tính, chủ nghĩa do thái và chủ nghĩa thực dân..., bởi vì việc tìm hiểu chúng giúp con người hiểu được tình trạng lệ thuộc của phụ nữ. Greta Gaard cũng cho rằng: “Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái không chỉ dựa vào sự nhận biết các mối liên hệ giữa việc lợi dụng tự nhiên và việc đè nén phụ nữ trong những xã hội nam quyền mà cả trong nhận thức rằng hai hình thái thống trị này được gắn với bóc lột giai cấp, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa thực dân mới” (Gaard, G., tr.1). Như vậy, luôn phải bóc tách vấn đề nữ quyền sinh thái trong nhưng mối quan hệ tác động qua lại là cách tiếp cận mà các nhà nữ quyền sinh thái phải làm bởi “việc bóc lột tự nhiên bao giờ cùng đi kèm với sự áp bức xã hội”. Phê bình nữ quyền sinh thái còn tích hợp với kiến thức của nhiều ngành bởi sự ra đời của nó phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh tự nhiên, xã hội, liên quan đến sự xuống cấp của môi trường và những giá trị đạo đức tinh thần. Vậy nên, nữ quyền sinh thái cần sự tích hợp của các kiến thức ngành khoa học khác như sinh học, tâm lý học, nhân loại học, triết học, lịch sử học... Rò ràng việc giải phóng nữ giới được xem như một phần song hành không thể tách rời của việc giải phóng tự nhiên.

1.1.4.3. Tính khả dụng của nữ quyền luận sinh thái trong nghiên cứu văn học

Phê bình nữ quyền sinh thái đang dần trở thành một trào lưu phát triển bởi sự kết hợp của việc bảo vệ môi trường và dần nâng cao, khẳng định vai trò của giới nữ trong xã hội. Không chỉ có ý nghĩa xã hội sâu sắc vì khiến cho nhân loại chú ý hơn đến mối quan hệ nội tại giữa hai vấn đề nguy cơ sinh thái và sự phân biệt giới, có ý thức đối xử hài hòa bình đẳng với phụ nữ và tự nhiên mà lý thuyết này còn góp phần làm phong phú và phát triển thêm nền lý luận và phê bình văn học, cũng như nâng cao trình độ sáng tác của các nhà văn.

Tính khả dụng của phương pháp tiếp cận theo nữ quyền sinh thái xuất phát từ sự cởi mở so với cách tiếp cận theo chủ nghĩa sinh thái truyền thống. Trong khi nữ quyền sinh thái có thể được áp dụng cho các phong trào chính trị, kinh tế và văn hóa nói chung, thì chủ nghĩa sinh thái chủ yếu giới hạn trong phân tích các tác phẩm văn học và văn hóa. Tính mở của nữ quyền sinh thái cũng được phản ánh trong nội hàm phê bình văn học của nó, là dựa trên những ý tưởng nữ quyền, và sinh thái để khám phá tầm nhìn của nữ quyền sinh thái trong văn học nói chung nhưng đặc biệt là trong sáng tác tự nhiên (nature writing).

Ở Việt Nam, lý thuyết này du nhập và được các học giả hưởng ứng những năm gần đây nên không khỏi bộc lộ những thiếu sót và hạn chế về mặt lý luận. Nó không có một hệ thống lý thuyết hoàn thiện mà dung hợp nhiều hệ hình, nhiều tư tưởng khác nhau. Nó

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/06/2022