thay các khái niệm “trình độ tập luyện chung” bằng “trình độ thể lực” hay “năng lực hoạt động thể lực”. Trình độ thể lực biểu thị bằng tình trạng chức năng của cơ thể và đặc biệt nó thể hiện thông qua các tố chất thể lực: sức bền, sức mạnh, sức nhanh, khéo léo và mềm dẻo đồng thời còn thể hiện ở sự phối hợp thần kinh - cơ [24], [32], [71], [92].
Aulic I.V cho rằng: Giữa trình độ thể lực và TĐTL có liên quan với nhau. TĐTL cao luôn thể hiện năng lực hoạt động cao và trong một số môn thể thao thì TĐTL và trình độ thể lực gần như trùng nhau. Bởi vì, TĐTL phụ thuộc vào hình thức hoạt động thể lực, tức là phụ thuộc vào môn thể thao. Như vậy, trình độ thể lực là một thành tố của TĐTL. Cũng theo tác giả thì: “Trình độ phát triển các tố chất thể lực là chỉ số có ý nghĩa dự báo quan trọng trong tất cả các giai đoạn tuyển chọn” [3].
1.1.3. Khái quát những quan điểm về đánh giá trình độ tập luyện của vận động viên bóng đá cấp cao.
Trong quy trình đào tạo VĐV nhiều năm, việc đánh giá TĐTL của VĐV các cấp theo độ tuổi, giới tính và môn thể thao chuyên sâu rất có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn trong huấn luyện và tuyển chọn VĐV thể thao nói chung và VĐV bóng đá cấp cao nói riêng. TĐTL là một phức hợp gồm nhiều thành tố y sinh, tâm lý, kỹ chiến thuật, thể lực, ngày càng được nâng cao nhờ tác động trực tiếp, lâu dài của lượng vận động tập luyện và thi đấu cũng như các biện pháp hỗ trợ ngoại sinh khác. Khái niệm của quá trình biến đổi lâu dài của trình độ tập luyện luôn luôn gắn liền với các phạm trù “phát triển” và “thích nghi”.
Theo quan điểm của Philin V.P cho rằng [49, tr. 64]: “Trình độ luyện tập là thước đo mức thích nghi của cơ thể đối với một hoạt động cụ thể đạt được qua tập luyện”, tác giả đã nhấn mạnh trình độ luyện tập là khả năng biến đổi các chức năng sinh học của cơ thể VĐV dưới tác động của tập luyện. Theo Aulic I.V “Trình độ luyện tập là năng lực tiềm tàng của VĐV để đạt
được những thành tích nhất định trong môn thể thao lựa chọn và năng lực này được biểu hiện cụ thể ở mức chuẩn bị về kỹ - chiến thuật, thể lực, đạo đức, ý chí và trí tuệ, trình độ luyện tập nâng cao thì VĐV càng có thể làm trọn vẹn được một nhiệm vụ nhất định với hiệu quả mỹ mãn hơn” [3, tr. 55]. Tác giả cho rằng, yếu tố cơ bản của trình độ tập luyện là thành tích thể thao. TĐLT càng cao đồng nghĩa với khả năng đạt thành tích cao trong thi đấu. Theo tác giả Nguyễn Thế Truyền (1991) cho rằng: “Do ảnh hưởng của lượng vận động trong tập luyện và thi đấu, năng lực thể thao của VĐV được nâng cao phù hợp với từng giai đoạn huấn luyện, trình độ được nâng cao của các năng lực thể thao được gọi là TĐTL” [65, tr.78]. Tác giả chỉ rõ TĐLT thể hiện ở sự phát triển của từng yếu tố thành phần như tố chất thể lực, năng lực kỹ thuật, chiến thuật, khả năng phối hợp vận động và phẩm chất tâm lý. Ngoài ra, TĐLT còn thể hiện khả năng biến đổi thích nghi về mặt sinh học của cơ thể với hoạt động thể thao.
Tóm lại các quan điểm trên của các tác giả trong và ngoài nước được phân tích và nhìn nhận dưới nhiều góc độ, cũng như khía cạnh khác nhau và TĐTL là một tổ hợp của nhiều yếu tố hợp thành. Nhưng nhìn chung các khái niệm, quan điểm về trình độ luyện tập được đánh giá theo các phương diện sư phạm, y - sinh học, tâm lý.
Trong bóng đá, TĐLT của cầu thủ là khả năng biến đổi các chức năng sinh lý, sinh hoá, tâm lý và tố chất thể lực thích nghi ngày càng cao với quá trình luyện tập và thi đấu được thể hiện qua sự phát triển của thành tích thể thao. Vì vậy, khi đánh giá TĐLT của cầu thủ bóng đá, cần xác định các yếu tố về sư phạm, y - sinh học và tâm lý.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện nữ vận động viên bóng đá cấp cao Việt Nam - 1
- Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện nữ vận động viên bóng đá cấp cao Việt Nam - 2
- Cơ Sở Khoa Học Về Đánh Giá Trình Độ Tập Luyện Trong Huấn Luyện Thể Thao Hiện Đại.
- Đặc Điểm Các Yếu Tố Cấu Thành Trình Độ Tập Luyện Của Vận Động Viên Bóng Đá Cấp Cao Trong Công Tác Huấn Luyện.
- Khả Năng Duy Trì Trạng Thái Sung Sức Thể Thao Trong Các Chu Kỳ Huấn Luyện.
- Đặc Điểm Về Khả Năng Vận Động Của Nữ Vận Động Viên Bóng Đá Cấp Cao Và Chu Kỳ Kinh Nguyệt.
Xem toàn bộ 230 trang tài liệu này.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu đánh giá TĐTL với cầu thủ bóng đá còn rất ít và chưa toàn diện. Tuy nhiên trong những năm gần đây, vấn đề này đã bắt đầu được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu như các công trình nghiên cứu của tác giả Phạm Ngọc Viễn (1999) với công trình: “Nghiên cứu
về tuyển chọn huấn luyện ban đầu về cầu thủ bóng đá trẻ từ 9 - 12” [85]; tác giả Phan Anh Tú (1993) với đề tài: “Nghiên cứu tuyển chọn và đào tạo bóng đá thiếu niên nghiệp dư ở Hà Nội” [70]; các tác giả Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Minh Ngọc (2000) [74] với đề tài: “Kiểm tra trình độ luyện tập đối với cầu thủ bóng đá trẻ” cho thấy, các công trình nghiên cứu ban đầu này rất có ý nghĩa góp phần thiết thực nâng cao hiệu quả công tác đào tạo cầu thủ bóng đá trẻ ở các câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chưa toàn diện, chủ yếu tập trung vào nghiên cứu sâu một số vấn đề hay trên một số đối tượng cụ thể. Để hoàn thiện hệ thống đào tạo VĐV bóng đá trẻ, nhiệm vụ trước mắt là bên cạnh xây dựng Chương trình giáo án huấn luyện mẫu, cần phải nghiên cứu và xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn đánh giá TĐTL của cầu thủ bóng đá theo các lứa tuổi khác nhau nhằm giúp các HLV, các CLB thường xuyên kiểm tra đánh giá tuyển chọn theo giai đoạn huấn luyện để sàng lọc lựa chọn chính xác các cầu thủ có tài năng triển vọng tiếp tục đào tạo ở các độ tuổi lớn hơn.
Quá trình phát triển TĐTL: Phát triển là một quá trình biến đổi trạng thái của tất cả các thành tố tạo lên thực thể trong tự nhiên và xã hội diễn ra theo một quy luật nhất định. Sự biến đổi các thực thể đó có mối quan hệ tương hỗ về lượng và chất; tính ngẫu nhiên, tính đa dạng của những biến đổi đó theo xu hướng chung không đảo ngược và tồn tại lâu dài.
Sự phát triển trình độ tập luyện nhờ tác động lâu dài của lượng vận động (bao gồm khối lượng, cường độ, mật độ bài tập) tạo nên những biến đổi về chức năng và cấu trúc trong các cơ quan và các hệ thống của cơ thể. Đương nhiên quá trình phát triển trình độ tập luyện không theo đường vòng, không theo đường thẳng mà theo đường xoáy chôn ốc, bao gồm cả các yếu tố đối lập nhau, nghĩa là vừa có tính chu kỳ vừa có dạng tuyến tính (đường thẳng) trong quá trình phát triển của trình độ tập luyện. Nếu đánh giá quá trình phát triển TĐTL ở tầm chu kỳ dài hạn thông qua lăng kính “trạng thái
sung sức thể thao” hoặc “phong độ” của cầu thủ thì càng cần phải lưu ý tới tính chất xoáy chôn ốc của quá trình phát triển trình độ tập luyện.
Trong phạm vi một chu kỳ huấn luyện dài hạn, trạng thái của VĐV thường thay đổi theo quy luật và theo từng giai đoạn:
Giai đoạn sung sức thể thao (tương ứng với trình độ tập luyện cao) được thay bằng giai đoạn tương đối ổn định sau đó và tiếp đến là giai đoạn suy giảm tạm thời trạng thái sung sức thể thao. Ngoài ra mỗi một chu kỳ mới, như thường lệ, đều có những điểm khác so với chu kỳ trước đó ở chỗ TĐTL phát triển ở mức cao hơn. Như vậy sự phát triển TĐTL theo từng giai đoạn và mang tính chu kỳ, cho nên tính lặp lại là quy luật phổ biến và chung nhất đối với bất kỳ quá trình phát triển TĐTL nào. Cần nhấn mạnh trong huấn luyện theo hệ thống qui trình khoa học thì thời lượng từng giai đoạn phát triển trạng thái sung sức thể thao có mối quan hệ tương hỗ. Ví dụ giai đoạn một diễn ra mạnh bao nhiêu thì giai đoạn hai đến nhanh bấy nhiêu, như vậy thời lượng giai đoạn một quyết định thời lượng ở giai đoạn hai. Nói một cách tổng quát là thời lượng của từng giai đoạn tùy thuộc vào sự thay đổi các phương tiện bài tập được sử dụng trong tập luyện và phụ thuộc vào thời gian thích ứng với lượng vận động chuyên môn của VĐV theo hướng đã được lựa chọn.
Tóm lại quá trình phát triển TĐTL là một quá trình mang tính chu kỳ và biến đổi lâu dài theo dạng xoáy chôn ốc của những biến đổi về chức năng và cấu trúc trong tất cả các hệ thống của toàn bộ cơ thể VĐV đặc biệt là các hệ tuần hoàn, hô hấp, hệ thần kinh - cơ, hệ tiêu hóa, hệ nội tiết…
Phát triển TĐTL - chu kỳ của những phản ứng thích nghi: nếu xem xét những luận điểm cơ bản về lý thuyết phát triển trên cơ sở lý thuyết thích nghi, nhận thấy sự phát triển TĐTL thực chất là chu kỳ của những phản ứng thích nghi. Như vậy quá trình thích nghi là một trong những mặt quan trọng của quá trình phát triển trình độ tập luyện lâu dài. Quá trình thích nghi được hiểu là quá trình thích ứng của cơ thể với những nhân tố môi trường bên ngoài tác
động lên bản thân cá thể VĐV. Đặc điểm hoạt động chức năng của cơ thể (lúc đầu còn xa lạ, nhưng dần dần trở lên quen thuộc đối với các cá thể VĐV đó) nảy sinh tùy thuộc vào tính chất của hoạt động, chế độ sống của từng cá thể VĐV. Những kết quả đạt được như là sản phẩm cuối cùng của quá trình thích nghi tạo nên nội hàm của khái niệm “trình độ thích nghi”, là trạng thái của các cơ quan và các hệ thống trong cơ thể đạt được sau quá trình thích ứng.
Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất khi xây dựng chương trình huấn luyện thể thao là phải đưa ra những quan điểm định hướng chung, xác định mục tiêu, nhiệm vụ cần đạt được trong từng giai đoạn huấn luyện, đảm bảo tăng từ từ lượng vận động (khối lượng, cường độ, mật độ vận động) và các nhân tố khác tác động đến VĐV trong quá trình tập luyện. Những tác nhân mang tính rèn luyện phát triển với VĐV phải dần dần đạt tới quy mô đầy đủ. Các luận điểm của thuyết thích nghi, cùng một số nhân tố khác thường được sử dụng làm cơ sở khoa học tự nhiên cho việc xây dựng nguyên tắc này. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là các luận điểm của thuyết thích nghi là cơ sở duy nhất.
Nguyên tắc này còn được dựa trên luận điểm quan trọng cho rằng: Các xu hướng tăng tiến trong sự phát triển các tố chất, khả năng kỹ chiến thuật, tâm lý của từng cá nhân VĐV luôn luôn phụ thuộc vào tính năng động sáng tạo trong hành vi hoạt động của họ, trong đó phải kể đến hoạt động cơ bắp tích cực được rèn luyện một cách có hệ thống nhằm phát huy tối đa mọi khả năng tiềm ẩn của con người. Những nghiên cứu của các nhà khoa học được thể hiện trong các luận điểm có tính quy luật như: sử dụng thường xuyên với cường độ ngày càng cao một cơ quan nào đó của cơ thể sẽ có tác dụng củng cố phát triển, đồng nghĩa với tạo ra và tăng cường sức mạnh của cơ quan đó. Sức mạnh ấy luôn luôn tỷ lệ thuận với thời gian sử dụng cơ quan hay bộ phận ấy của cơ thể. Sau này người ta càng hiểu chi tiết hơn đặc tính kỳ diệu của sinh giới đó là hoạt động, làm việc không những không làm cho cơ thể yếu đi,
hay bị suy giảm mà ngược lại, được hoàn thiện và phát triển. Điều đó chính là nhờ khả năng hiếm có của sinh giới: Khôi phục lại những cái đã bị tiêu hao ở mức độ cao hơn “bù đắp vượt mức” - của Ukhtomki. Từ góc độ tổng quát lý luận triết học trong tác phẩm “vai trò của lao động trong quá trình chuyển hóa từ vượn thành người” Ăngghen phân tích, chứng minh đầy sức thuyết phục vai trò sáng tạo con người của hoạt động tích cực nhằm cải tạo tự nhiên và cải tạo chính mình.
Theo những quan điểm lý thuyết xây dựng trên cơ sở các kết quả nghiên cứu thực nghiệm thì phản ứng của cơ thể đối với những tác nhân kích thích (lượng vận động tập luyện) thay đổi rất mạnh mẽ ở các giai đoạn khác nhau trong quá trình thích nghi [2], [33], [47].
Ở giai đoạn đầu tiên thường xảy ra những phản ứng mang tính stress cực kỳ năng động. Những phản ứng này đi liền với quá trình huy động vượt mức chức năng của các cơ quan, các hệ thống của cơ thể chịu sự tác động đột ngột mới mẻ từ phía các nhân tố môi trường bên ngoài hoặc của một dạng hoạt động mới nào đó. Những phản ứng dạng này đôi lúc mạnh đến mức làm cho cơ thể lâm vào trạng thái mất cân bằng tạm thời.
Ở giai đoạn thứ hai (giai đoạn chuyển tiếp) chủ yếu diễn ra những biến đổi về cấu trúc chức năng của các cơ quan và hệ thống trong cơ thể (thường biểu hiện dưới dạng những thay đổi mạnh mẽ trong hệ cơ bắp). Những biến đổi này luôn luôn gắn liền với sự năng động hóa hệ thống gien trong cấu trúc tế bào với sự tổng hợp các yếu tố về kết cấu (các axit amin, các chất đạm…) với sự lớn mạnh về khả năng hoạt động của những cơ quan, các hệ thống thích nghi của cơ thể.
Ở giai đoạn thứ ba (giai đoạn thích nghi bền vững) những phản ứng nêu trên của cơ thể giảm dần, tức là cơ thể phản ứng lại các tác nhân kích thích không mạnh mẽ, tổng lực như trước. Theo Merrson, nhà nghiên cứu uy tín về các quy luật thích nghi, các đặc trưng của giai đoạn này là tính tiết kiệm
trong hoạt động chức năng. Áp dụng những kết quả phân tích trên vào việc xây dựng cơ sở lý luận tập luyện cho phép hiểu thấu đáo hơn các cơ chế khách quan dẫn tới hiệu quả trong tập luyện.
Do các quy luật thích nghi cùng biểu hiện trong quá trình tập luyện, nên các tác nhân tập luyện (LVĐ tập luyện) tạo ra trạng thái thích nghi ổn định, sẽ không còn tác dụng gây ra những biến đổi tăng tiến trong trình độ tập luyện. Từ lâu, các huấn luyện viên đã phát hiện ra hiện tượng này, cho nên họ đã tích cực tìm kiếm những hình thức tạo sự tăng trưởng thành tích thể thao của cầu thủ. Lúc đầu theo kinh nghiệm, sau nâng dần lên trình độ tổng kết lý luận. Những kết quả cho thấy mối quan hệ có tính quy luật giữa việc không ngừng tăng cường tác nhân phát triển trong quá trình tập luyện và xu hướng tăng tiến trình độ tập luyện của cầu thủ bóng đá. Quy luật này được thể hiện ở một trong những nguyên tắc tổ chức tập luyện. Cần chú ý là bản thân nguyên tắc này không phải là hệ quả trực tiếp được rút ra từ thuyết thích nghi, mặc dù thuyết này có tác dụng nhất định đối với nhận thức những quy luật liên quan đến tập luyện thể thao. Xin nhấn mạnh thuyết phát triển và thuyết thích nghi là hai lý thuyết riêng biệt độc lập tương đối với nhau, tuy nhiên có những mối liên quan nhất định với nhau. Mối liên hệ giữa hai lý thuyết này cần được xem xét nhận thức một cách chính xác. Cụ thể nhất là khi cùng được ứng dụng để được giải quyết một vấn đề thuộc về lĩnh vực khoa học chuyên ngành nào đó. Trong trường hợp này, một nhiệm vụ đặt ra là kết hợp tối ưu các tác nhân thích nghi với các tác nhân tập luyện theo hướng phát triển trong quá trình huấn luyện đào tạo cầu thủ bóng đá. Nhiệm vụ này không đơn giản. Mức độ phức tạp của nó càng tăng trong quá trình xây dựng thiết kế một chương trình tập luyện thể thao tổng hợp trong những thời gian dài, những chu kỳ lớn.
Tất cả những ý kiến được trình bày trên liên quan đến việc vận dụng các luận điểm của thuyết thích nghi vào việc thiết kế soạn thảo chương trình, kế hoạch tập luyện cho cầu thủ bóng đá nhưng không có ý phủ định giá trị của
lý thuyết này với khoa học thể thao, mà ngược lại cần phải cố gắng áp dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của thuyết thích nghi và học thuyết huấn luyện. Từ những phân tích nêu trên cho thấy, nếu không có sự phân biệt rõ ràng giữa “thuyết thích nghi” và “thuyết phát triển” trong quá trình ứng dụng vào lý thuyết huấn luyện thì sẽ dẫn tới hậu quả khó lường, không chỉ về mặt lý luận mà còn cả về mặt thực tiễn trong quá trình huấn luyện VĐV bóng đá.
1.2. Xu thế phát triển của bóng đá hiện đại và đặc điểm của các yếu tố cấu thành trình độ tập luyện VĐV bóng đá cấp cao trong công tác huấn luyện.
1.2.1. Đặc điểm và xu thế phát triển của bóng đá hiện đại.
1.2.1.1. Đặc điểm hoạt động vận động trong môn bóng đá.
Bóng đá là môn thể thao đối kháng trực tiếp giữa hai đội bóng thay phiên nhau tấn công và phòng thủ. Đặc điểm nổi bật của bóng đá hiện đại là tập luyện và thi đấu với khối lượng và cường độ vận động lớn trong thời gian dài, điều đó tác động mạnh mẽ đến cơ thể VĐV. Trong suốt 90 phút, thậm chí 120 phút thi đấu, VĐV bóng đá chạy tổng cộng từ 10.000 - 15.000 m, bao gồm các hình thức chạy, đi xen kẽ, chạy nước rút cự ly ngắn, chạy tốc độ trung bình, chạy chậm, đi bộ, đứng yên [1], [22], [28], [90].
Theo nghiên cứu của các tác giả Kotrekov A.P (2001) [35] và Visochin Yu.V, Denisenko Yu.P (2001) [88] cho thấy, trong một trận đấu, trung bình các VĐV chạy nước rút chiếm 18% tổng quãng đường trận đấu, chạy tốc độ
6.92 - 8.15 m/s; chạy tốc độ trung bình, chạy chậm chiếm 44% tổng quãng đường, vận tốc 2.04 - 6.92 m/s; đi bộ chiếm 36.3% tổng quãng đường, vận tốc
1.30 - 2.04 m/s. Dựa vào cự ly chạy trong trận đấu và đặc điểm kỹ thuật cá nhân đã phân tích được lượng vận động của VĐV trong một trận đấu và các dạng chuyển hoá năng lượng khác nhau. Như vậy, đặc điểm loại hình vận đông khá phổ biến trong bóng đá là vận động hỗn hợp, trong đó có dạng vận động với công suất cực đại trong thời gian ngắn và lặp lại nhiều lần trong suốt