về thể lực. Thể lực là nền tảng cho mọi hoạt động trong bóng đá [10], [11], [103], [104].
Yếu tố kỹ thuật: kỹ thuật là cách thực hiện động tác có hiệu quả cao nhất để giải quyết nhiệm vụ vận động hợp lý. Kỹ thuật trong tất cả các môn thi đấu thể thao có những giá trị khác nhau. Đối với môn bóng đá, kỹ thuật luôn là đại lượng cơ bản để xác định thành tích thể thao. Do đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng của HLTT là huấn luyện kỹ thuật thể thao. Trình độ phát triển kỹ thuật trở thành một trong những mặt không thể thiếu đế đánh giá TĐTL của VĐV, trong đó có VĐV bóng đá [5], [10], [20].
Theo Philin V.P (1996): “Chỉ có huấn luyện kỹ thuật thể thao một cách hợp lý, tiên tiến là phù hợp với đặc điểm cá nhân VĐV mới có thể phát huy được trình độ thể lực, đồng thời là cơ sở để phát huy tính hiệu quả của chiến thuật thể thao. Nếu VĐV có kỹ thuật điêu luyện, toàn diện thì sử dụng được chiến thuật và nâng cao được hiệu quả sử dụng chiến thuật” [49, tr. 62].
Trong tập luyện và thi đấu bóng đá, các cầu thủ phải có khả năng điều khiển quả bóng bằng nhiều bộ phận cơ thể, từ đôi chân đến đầu, ngực… Phải huấn luyện cầu thủ có khả năng làm chủ quả bóng với lối chơi nhanh trước áp lực liên tục của đối phương, phải biết sút cầu môn khi có điều kiện ở bất cứ vị trí nào, cũng như phải biết cản phá và thu hồi bóng trong phòng thủ dù đó là cầu thủ tiền đạo. Những cầu thủ có kỹ thuật không tốt hoặc mặc dù rất khéo léo điều khiển trái bóng trong điều kiện tĩnh mà không kiểm soát được bóng ở tốc độ cao và trong sự đeo bám cản phá của đối thủ thì sẽ không thể có hiệu quả tốt trong thi đấu [22], [38], [61].
Yếu tố chiến thuật: chiến thuật thể hiện trình độ thi đấu cao nhất nhằm chiến thắng đối phương trong mỗi cuộc đấu. Chiến thuật được sử dụng dựa trên cơ sở trình độ kỹ thuật, thể lực, tâm lý, và các yếu tố khác. Sử dụng chiến thuật hợp lý nhằm khống chế đối phương, giành quyền chủ động trên sân, lấy điểm mạnh của mình để chế ngự, khoét sâu vào điểm yếu của đối phương,
hạn chế tối đa điểm mạnh của đối thủ, đồng thời dấu đi những điểm yếu của mình [5], [10].
Bóng đá ngày nay đòi hỏi cầu thủ phải biết tư duy chiến thuật nhanh, do yêu cầu phải liên tục hoán đổi vị trí khác nhau trong tấn công và phòng ngự với lối chơi nhanh nên đòi hỏi cầu thủ phải được chuẩn bị đa dạng về chiến thuật. Ở nhịp độ thi đấu luôn khẩn trương, phải linh hoạt trong di chuyển đòi hỏi cầu thủ cần có khả năng nhanh chóng tìm ra giải pháp chiến thuật hợp lý cho mình và cho đồng đội. Vì vậy, loại hình cầu thủ chỉ chơi tốt được ở từng vị trí nhất định sẽ không thích hợp với xu thế chơi bóng đá ở trình độ cao. Cầu thủ cần phải được chuẩn bị tốt để có thể sử dụng tư duy chiến thuật ngẫu hứng phù hợp với đòi hỏi chặt chẽ trong kỷ luật chiến thuật [11], [28], [37], [73].
1.2.2.3. Yếu tố tâm lý.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Khoa Học Về Đánh Giá Trình Độ Tập Luyện Trong Huấn Luyện Thể Thao Hiện Đại.
- Khái Quát Những Quan Điểm Về Đánh Giá Trình Độ Tập Luyện Của Vận Động Viên Bóng Đá Cấp Cao.
- Đặc Điểm Các Yếu Tố Cấu Thành Trình Độ Tập Luyện Của Vận Động Viên Bóng Đá Cấp Cao Trong Công Tác Huấn Luyện.
- Đặc Điểm Về Khả Năng Vận Động Của Nữ Vận Động Viên Bóng Đá Cấp Cao Và Chu Kỳ Kinh Nguyệt.
- Tổng Quan Một Số Công Trình Nghiên Cứu Có Liên Quan.
- Đối Tượng, Phương Pháp Và Tổ Chức Nghiên Cứu
Xem toàn bộ 230 trang tài liệu này.
Tính chất phức tạp và phong phú của động tác trong các bài tập thi đấu, đòi hỏi VĐV phải có năng lực tâm lý chung và chuyên môn. Thông qua năng lực xử lý thông tin, biểu thị đặc tính các khả năng cảm giác vận động và trí tuệ con người, trong các điều kiện ít thời gian và lượng tín hiệu lớn cần phải điều chỉnh và trả lời chính xác.
Tính linh hoạt của hệ thần kinh là một tính chất độc lập biểu thị tốc độ chuyển đổi các phản xạ có điều kiện hay các dấu hiệu có kích thích. Theo tác giả Phạm Ngọc Viễn (1990) thì: “Thử nghiệm sự chuyển đổi tín hiệu là một tổ hợp phức tạp các chức năng của hệ thần kinh, mà phần lớn các chức năng đó là sự xuất hiện các mặt khác nhau của tính linh hoạt” [79, tr. 45].
Trong bóng đá, sự ổn định về tâm lý, vững vàng về tinh thần, luôn bình tĩnh và biết kiềm chế, cũng như ý thức kỷ luật thi đấu cao luôn là bảo đảm cho thành công trong thi đấu bóng đá. Nếu một cầu thủ nóng nẩy, trong va chạm với đối phương mà không biết tự kiếm chế sẽ dễ bị truất quyền thi đấu (bị thẻ đỏ) và đó chính là dấu hiệu thất bại của đội bóng. Cũng như vậy, những cầu
thủ bị mất bình tĩnh trước áp lực của hàng vạn khán giả trên sân sẽ suy giảm một phần sức mạnh của đội bóng. Việc chuẩn bị tốt về tinh thần, tâm lý cho cầu thủ không chỉ là công việc được thực hiện trước mỗi trận đấu, mà là công việc thường xuyên trong mỗi buổi tập luyện [54], [84], [91].
1.2.2.4. Khả năng duy trì trạng thái sung sức thể thao trong các chu kỳ huấn luyện.
Trạng thái sung sức thể thao là trạng thái sung sức nhất về trình độ tập luyện, sức khoẻ, tâm lí để đạt thành tích thể thao tối đa. Trạng thái sung sức thể thao là kết quả thu được trong quá trình tập luyện; từ những biến đổi dần dần về lượng vận động, tạo nên một trạng thái mới nổi bật về chất. Trạng thái sung sức thể thao có những đặc điểm thể hiện sự phát triển cao những chức năng sinh lý, sự hoạt động phối hợp của tất cả các hệ thống chủ yếu của cơ thể đáp ứng được những đòi hỏi cao trong thi đấu. Biểu hiện của trạng thái sung sức thể thao: cơ thể khoẻ, tinh thần hứng khởi, sức chịu đựng cao về lượng vận động, không xuất hiện mệt mỏi “cực điểm”, hồi phục sức khoẻ nhanh, đạt thành tích tối đa trong thi đấu [49], [63], [65].
Trong thể thao hiện đại, vấn đề kiểm tra đánh giá TĐTL của VĐV các cấp theo độ tuổi, giới tính, và môn thể thao chuyên sâu có ý nghĩa thực tiễn và lý luận trong quá trình tuyển chọn và đào tạo VĐV. Trong thực tiễn, việc tuyển chọn - huấn luyện và kiểm tra đánh giá TĐTL đối với VĐV có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Việc kiểm tra đánh giá TĐTL cho VĐV trong các giai đoạn của quá trình huấn luyện là một trong những khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình huấn luyện nhiều năm. Đối với VĐV cấp cao, việc đánh giá TĐTL thường gắn liền với trạng thái sung sức thể thao trong các chu kỳ huấn luyện và thành tích thi đấu thể thao, nhằm giúp cho các HLV có những thông tin khách quan, tin cậy để điều chỉnh kế hoạch huấn luyện một cách hợp lý và khoa học [14], [23], [47]. Hiện nay trình độ thi đấu thể thao môn bóng đá ngày càng phát triển ở trình độ cao và tranh đua
ngày càng căng thẳng, nên yêu cầu đối với VĐV ngày càng nâng lên. Do đó, muốn trở thành những VĐV đạt trình độ cao, cần phải phát triển đầy đủ các mặt năng lực: thể lực, kỹ - chiến thuật và tâm lý. Để nâng cao và phát triển các mặt năng lực này, cần phải thông qua huấn luyện có kế hoạch, trong thời gian dài mới có thể thực hiện được. Vì kế hoạch huấn luyện nhiều năm là qui hoạch trực quan tổng thể của quá trình huấn luyện nhiều năm với VĐV, nên nó có ý nghĩa chỉ đạo mang tính chiến lược đối với các kế hoạch huấn luyện ngắn hạn hơn (kế hoạch năm, giai đoạn) [6].
Căn cứ qui luật phát triển năng lực thi đấu của VĐV và đặc điểm cơ bản của huấn luyện bóng đá hiện đại, trong chương trình huấn luyện môn bóng đá nước ta đã qui định, toàn bộ quá trình huấn luyện nhiều năm của một VĐV có trình độ cao chia làm 5 giai đoạn là: giảng dạy, huấn luyện cơ sở, nâng cao toàn diện, huấn luyện đột phá mũi nhọn và huấn luyện duy trì. Mỗi giai đoạn có nhiệm vụ và yêu cầu khác nhau, đồng thời sắp xếp LVĐ cũng khác nhau. Trong đó, giai đoạn đột phá mũi nhọn thi đấu là giai đoạn hạt nhân quan trọng nhất, giai đoạn này đỉnh cao là trạng thái sung sức thể thao, năng lực thi đấu tốt nhất và biểu hiện thành tích cao nhất, đánh giá thành quả huấn luyện nhiều năm của VĐV [90].
Theo quan điểm của nhiều chuyên gia hàng đầu và các HLV bóng đá hiện nay cho thấy, để duy trì TĐTL của VĐV có thể đáp ứng yêu cầu các cuộc thi đấu trong năm, các HLV sử dụng chu kỳ huấn luyện nhỏ trong kế hoạch huấn luyện năm. Lợi ích của việc huấn luyện theo chu kỳ nhỏ là: [6], [12], [28], [89].
Rút ngắn thời gian của mỗi chu kỳ chuẩn bị, nâng cao mật độ huấn luyện, duy trì trạng thái sung sức thể thao trong phần lớn thời gian của năm ở mức tương đối cao, để giúp cho việc thi đấu đạt kết quả tốt nhất.
Tăng tỷ lệ (thời gian) huấn luyện chuyên môn, giúp cho việc nâng cao thành tích trong thi đấu.
Nâng cao khả năng chịu đựng LVĐ cao trong thi đấu.
Làm cho trạng thái thái sung sức thể thao luôn duy trì ở mức tương đối cao, do đó có lợi cho việc nâng cao tính hưng phấn tâm lý và chuẩn bị tâm lý của VĐV.
Do mỗi chu kỳ lớn có nhiều cuộc thi đấu quan trọng, nên trong kế hoạch huấn luyện đã hình thành nhiều chu kỳ nhỏ, điều này giúp cho việc hình thành trạng thái thi đấu một cách ổn định, bền vững, tạo điều kiện cho việc đạt được thành tích tốt nhất.
Vì vậy, đánh giá TĐTL và theo dõi diễn biến của nó là công việc rất quan trọng của HLV và cán bộ y học thể thao. TĐTL được phát triển đúng và việc đạt được mức độ cao nhất ở thời điểm cần thiết (trạng thái sung sức thể thao) phản ánh hiệu quả của quá trình huấn luyện. Phát hiện các rối loạn của TĐTL (trạng thái mệt mỏi quá sức, tập luyện quá sức, căng thẳng thể lực trường diễn) phản ánh sự không phù hợp của chương trình huấn luyện và yêu cầu cần phải có sự điều chỉnh.
1.3. Khái quát về đặc điểm tâm - sinh lý của nữ vận động viên bóng đá cấp cao.
Các môn bóng nói chung và môn bóng đá nói riêng thuộc loại hình hoạt động các bài tập hỗn hợp và các bài tập nằm trong 4 vùng cường độ của Pharphell và hoạt động không có chu kỳ theo tình huống [32]. Môn bóng đá có nhiều kỹ thuật cơ bản, hầu hết là hoạt động thi đấu đối kháng trực tiếp, kỹ thuật vận động tuỳ cơ ứng biến, phụ thuộc hành vi của đối thủ và đồng đội, theo sự phát triển của tình huống thi đấu. Nắm vững được kỹ thuật cơ bản càng nhiều thì kinh nghiệm trong thi đấu càng phong phú, phản ứng chính xác, tốc độ càng nhanh, tăng cường tính chủ động tích cực.
1.3.1. Đặc điểm tâm lý của nữ vận động viên bóng đá cấp cao.
Tâm lý học Mác xít cho rằng cần phải nghiên cứu tuổi thanh niên một cách phức hợp, phải kết hợp quan điểm tâm lý xã hội học với việc tính đến
những quy luật bên trong của sự phát triển; đó là vấn đề phức tạp và khó khăn. Bởi vì không phải lúc nào nhịp độ các giai đoạn phát triển của sự phát triển tâm lý cũng trùng hợp với các giai đoạn trưởng thành về mặt xã hội. Tác giả Phạm Ngọc Viễn cho rằng: “Sự bắt đầu trưởng thành của một con người như là một cá thể, một nhân cách, một chủ thể nhận thức và một chủ thể lao động là không trùng hợp nhau về thời gian” [81], [84], [87].
Xét về nội dung và tình cảm của hoạt động ở VĐV cấp cao (lứa tuổi trưởng thành) phức tạp hơn nhiều so với lứa tuổi thanh thiếu niên ở giai đoạn trước. Ở lứa tuổi này không những đòi hỏi về mặt học tập mà còn đòi hỏi tính năng động, sáng tạo ở mực độ cao hơn nhiều; đồng thời cũng đòi hỏi muốn nắm được chương trình học tập một cách sâu sắc thì cần phát triển tư duy về lý luận. Khi tuổi càng trưởng thành thì kinh nghiệm sống càng phong phú, họ càng ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của một cuộc đời. Do vậy, thái độ ý thức học tập của các VĐV ở lứa tuổi này phát triển cao. Các VĐV lứa tuổi trưởng thành được thúc đẩy bởi động cơ học tập và đã nhận thức được ý nghĩa xã hội của môn học, của nghề nghiệp mình lựa chọn, đó cũng là điều kiện thuận lợi cho công tác huấn luyện ở lứa tuổi này.
Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ: tri giác có mục đích đã đạt ở một mức độ cao; quan sát trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện hơn. Ở lứa tuổi VĐV cấp cao, ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ; đồng thời vai trò của ghi nhớ logic, trừu tượng ngày một tăng rõ rệt, đặc biệt ở lứa tuổi này, các VĐV đã tạo được tâm thể trong ghi nhớ. Do cấu trúc của não phức tạp và chức năng của não phát triển nên các VĐV ở lứa tuổi trưởng thành (VĐV cấp cao) suy nghĩ chặt chẽ hơn, có căn cứ hơn và nhất quán hơn. Đây là cơ sở để hình thành thế giới quan [78], [80], [84].
Sự phát triển về ý thức: sự phát triển về ý thức là đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của VĐV cấp cao trong giai đoạn này. Đặc điểm quan trọng là sự tự ý thức của lứa tuổi này, nó xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống,
hoạt động, địa vị xã hội, mối quan hệ với thế giới xung quanh buộc các VĐV phải ý thức được nhân cách của mình. Các VĐV không chỉ nhận thức được cái tôi của mình trong hiện tại mà còn nhận thức được vị trí của mình trong xã hội tương lai. Các VĐV có được phẩm chất nhân cách bộc lộ rõ trong lao động, biết yêu lao động, tính cần cù, dũng cảm, tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng, ý chí cao, biết khắc phục những khó khăn để đạt được mục đích mình đã định. Đây chính là đặc điểm thuận lợi để rèn luyện các tố chất thể lực. Không những các VĐV biết đánh giá hành vi của mình mà còn biết đánh giá những phẩm chất, mạnh, yếu của người khác [80], [84], [87].
Sự hình thành thế giới quan: ở lứa tuổi VĐV cấp cao (lứa tuổi trưởng thành) đã có sự hình thành thế giới quan, hệ thống quan điểm về tự nhiên, xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng xử… Những điều đó được ý thức vào các hình thức tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi được xác định vào một hệ thống hoàn chỉnh [13], [54], [81].
1.3.2. Đặc điểm sinh lý của nữ vận động viên bóng đá cấp cao.
Hệ xương: vẫn tiếp tục được cốt hoá mãi tới năm 24 - 25 mới hoàn thiện, các cơ tăng khối lượng và đạt 43 - 44% trọng lượng toàn thân. Sự cốt hoá bộ xương, điều đó có nghĩa là đã chấm dứt sự phát triển chiều dài. Quá trình đó xảy ra do các màng xương được phát triển dày lên bao bọc quanh sụn. Giai đoạn này hệ xương phát triển mạnh về chiều dài, làm tăng chiều cao chung của cơ thể. Sự phát triển không đồng đều cột sống và tuyến chi dài ra, các xương lồng ngực dài chậm, lồng ngực trở nên hẹp so với chiều cao, hệ sụn ở xương nhiều, bao khớp và hệ thống dây chằng mỏng, yếu vì vậy độ linh hoạt của khớp cao. Khả năng mềm dẻo có xu hướng giảm dần theo lứa tuổi và độ bền vững của khớp tăng [17], [26], [45].
Hệ thần kinh: Trong thi đấu, tình hình trên sân thay đổi bất ngờ và nhanh chóng nên VĐV phải tìm biện pháp thay đổi nhịp độ, phương hướng động tác, thậm chí còn thay đổi kỹ năng. Do vậy trong thi đấu, các VĐV cần
tập trung chú ý cao, thần kinh rất căng thẳng, do đó cần năng cao tính linh hoạt và ổn định của vỏ não. Ở đây vai trò của tập luyện ảnh hưởng lớn đến chức năng cảm giác và vận động của VĐV. Tình huống trên sân luôn biến hoá nên truyền tín hiệu kích thích về vỏ não phải nhanh để kịp thời phân tích đưa ra phương pháp xử lý, để từ đó VĐV có thể đưa ra các phản ứng đúng lúc và chính xác [25], [26]. Trong thi đấu bóng đá, yếu tố thị giác đóng vai trò quan trọng trong việc quan sát bóng, phán đoán sự di chuyển của đồng đội và của đối phương để thực hiện tốt và hiệu quả chiến thuật thi đấu nên tính nhạy cảm thị giác trong môn bóng tương đối cao [34], [29], [68].
Hệ tuần hoàn: hình thức chuyển động của cơ thể đa dạng, thời gian hoạt động và cường độ hoạt động cũng không giống nhau; vị trí đứng không giống nhau, cơ thể phải vận động rất nhiều nên ảnh hưởng đến chức năng tim mạch [17], [25]. Mức độ biến đổi phụ thuộc vào vị trí đứng của cầu thủ, chiến thuật sử dụng, sự thay đổi tình huống, vị trí đối phương, sự thay đổi nhiệt tình trong thi đấu. Khi qui mô thi đấu khác nhau, mức độ hứng thú khác nhau, phản ứng chức năng tim mạch cũng khác nhau.
Tần số mạch yên tĩnh của VĐV bóng đá là 50 - 60 lần/phút, VĐV bóng rổ là 48 - 60 lần/phút. Trong thi đấu, tần số mạch có thể tăng cao lên 140 - 180 lần/phút, huyết áp tối đa 150 - 180 mmHg. Sự thay đổi các chỉ số trên còn phụ thuộc vào qui mô thi đấu và cường độ trận đấu [16], [26], [43].
Hệ hô hấp: Đã hoàn thiện vòng ngực trung bình của nam vào khoảng 75 - 80 cm, nữ 80 - 85 cm, diện tích tiếp xúc của phổi khoảng 120 - 150 cm, dung lượng phổi khoảng 4 - 5 lít, tần số hô hấp 10 - 20 lần/phút, vì vậy các bài tập phát triển sức bền rất phù hợp với lứa tuổi này. Khi thi đấu bóng đá, khả năng hô hấp có thể đạt tới mức giới hạn. Tần số hô hấp lên đến 30 - 60 lần/phút, hấp thụ oxy đạt 60 - 95%, nợ oxy kéo dài.
Trao đổi chất và năng lượng: Mỗi môn bóng khác nhau sự tiêu hao năng lượng khác nhau, trong đó bóng đá tiêu hao năng lượng nhiều nhất.