Yếu Tố Về Thể Lực Và Cơ Sở Phát Triển [2], [4], [5], [15], [22]


lưu ý đến những chỉ tiêu ít chịu sự tác động của yếu tố di truyền. Thực chất đánh giá mô hình là nhận định giá trị hiện tại. Do đó, không phải mọi chỉ tiêu hình thái chức năng đều có đặc trưng cho mô hình, mà chỉ có những chỉ tiêu có sự biến đổi qua tập luyện có hệ thống mới có được giá trị ấy.

Việc kiểm tra các chỉ tiêu hình thái (bằng phương pháp nhân trắc) khi xây dựng mô hình của VĐV, thường không có ý nghĩa lớn như khi tuyển chọn ban đầu. Tuy nhiên, đây vẫn là điều cần thiết nhất là đối với các VĐV. Các kết quả kiểm tra sẽ cho biết cơ thể của VĐV có phát triển đúng quy luật chung hay không, có đúng với yêu cầu đặc thù của môn thể thao là chuyên môn hẹp của VĐV hay không.

1.4.2. Yếu tố về chức năng sinh lý

Cầu lông là môn thể thao dùng vợt dành cho hai hoặc bốn người chơi, với cấu trúc thời gian đặc trưng bởi các hành động quãng ngắn và cường độ cao. Môn thể thao này có năm nội dung thi đấu: nội dung đơn nam, đơn nữ, đôi nam, đôi nữ và đôi nam nữ, và mỗi nội dung đòi hỏi sự chuẩn bị về kỹ thuật, khả năng kiểm soát và thể lực. Một đặc tính điển hình của thi đấu cầu lông là một đường cầu qua lại có thời gian 7 giây và thời gian nghỉ là 15 giây, với thời gian chơi hiệu quả là 31%. Môn thể thao này có yêu cầu kỹ năng, nỗ lực cao, với nhịp tim trung bình (HR) trên 90% HR tối đa của vận động viên. Các hành động ngắt quãng trong một trận đấu đòi hỏi sử dụng cả hai hệ thống hiếu khí và kỵ khí: 60-70% đối với hệ thống hiếu khí và khoảng 30% đối với hệ thống kỵ khí, với nhu cầu lớn hơn về chuyển hóa alactic về mặt chuyển hóa kỵ khí lactic. Quỹ đạo cầu không ổn định và các vận động viên thực hiện di chuyển cụ thể như bật và nhảy, các cú đánh mạnh sử dụng một mô hình chuyển động cụ thể. Cuối cùng, vận động viên cầu lông có khả năng thị giác phù hợp để thu thập thông tin trực quan chính xác trong một khoảng thời gian ngắn.


Trong một trận thi đấu, vận động viên cần phải duy trì cường độ thi đấu cao càng lâu càng tốt. Tiêu hao năng lượng phụ thuộc vào các yếu tố hình thái của vận động viên và hiệu quả của việc di chuyển. Vận động viên tập trung chú ý quả cầu và đối thủ nhằm dự đoán sự di chuyển của cầu và đối thủ. Do quá trình chuẩn bị tấn công và quỹ đạo cầu không ổn định và khó đoán mà để đánh trúng cầu đi đủ chiều dài sân đòi hỏi kỹ năng rất cao [55, 81]. Vận động viên điều chỉnh di chuyển bằng cách sử dụng các yếu tố sinh cơ hiệu quả để đáp ứng đầy đủ lượng thông tin thị giác thu thập được. Điều này đòi hỏi sự thay đổi nhanh chóng về hướng, nhảy, di chuyển nhanh về phía lưới và chuyển động cánh tay nhanh chóng từ nhiều tư thế khác nhau [96, 74]. Chính những yếu tố này làm ảnh hưởng đến yêu cầu về mặt thể chất.

Dưới tác động của lượng vận động chức năng của tất cả các cơ quan, hệ cơ quan trong cơ thể đều có sự biến đổi theo những định hướng nhất định nhằm thích nghi với các tác nhân kích thích.

Đặc điểm sinh lý của lứa tuổi 18-22.

- Hệ thần kinh: Ở lứa tuổi 18-22, các tổ chức thần kinh tiếp tục phát triển chậm và đi đến hoàn thiện, khả năng tư duy phân tích tổng hợp, trừu tượng hóa phát triển thuận lợi cho sự hình thành phản xạ có điều kiện. Tổng khối lượng vỏ não không tăng mấy nhưng cấu tạo bên trong vỏ não phức tạp hơn. Khả năng lao động trí óc của VĐV trong quá trình huấn luyện biến đổi theo thời gian và biểu hiện theo sự thay đổi các giai đoạn: Thích ứng - ổn định

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 196 trang tài liệu này.

- tăng cao - suy giảm. Việc sử dụng hợp lý các phương tiện giáo dục thể chất để tập luyện phối hợp với nghỉ ngơi thư giãn sẽ nâng cao khả năng làm việc. Hoạt động vận động cũng như mọi hành vi khác đều chịu sự điều khiển của thần kinh và thể dịch, trong đó điều khiển của thần kinh chiếm vị trí chủ đạo.


Nghiên cứu xây dựng mô hình nữ vận động viên cầu lông cấp cao Việt Nam - 5

- Hệ vận động: Xương bắt đầu giảm tốc độ phát triển, phần sụn ở đầu xương đã được xương hóa, cột sống ổn định hình dáng. Những xương thường xuyên chịu những tác động cơ học lớn thì giàu chất vô cơ, vì thế xương đùi, nhất là xương chày cứng rắn hơn xương cánh tay. Chiều cao cơ thể còn phụ thuộc vào yếu tố di truyền, vì thế trong công tác tuyển chọn chúng ta phải luôn chú ý tới yếu tố quan trọng này.

- Hệ tuần hoàn: Hệ tuần hoàn của VĐV ở lứa tuổi 12-18 đang phát triển và hoàn thiện. Trong quãng đời con người, tần số mạch đập không giống nhau. Lứa tuổi nhỏ tim đập tương đối nhanh, đến tuổi 18 - 20 tim đập bắt đầu ổn định: 70 - 80 lần/phút đối với nam và 75 - 85 lần/phút đối với nữ. Mạch đập được tạo nên bởi sự hoạt động của tim. Tần số mạch đập bằng tần số co bóp của tim. Chỉ số mạch đập lúc yên tĩnh sẽ thay đổi nhiều dưới tác động của tập luyện thể dục thể thao. Phương pháp bắt mạch là phương pháp đơn giản, dễ làm và cho ra thông tin rất đáng tin cậy về khả năng hoạt động của hệ tuần hoàn và cũng là tình trạng sức khỏe của cơ thể trong cuộc sống lao động cũng như hoạt động TDTT.

Huyết áp: Là áp lực của máu đè lên thành mạch được tạo nên do áp lực của tim. Bình thường huyết áp tối đa từ 100 - 130 mmHg; dưới 100 mmHg là huyết áp thấp, trên 130 mmHg là huyết áp cao. Huyết áp tối thiểu từ 65- 85 mmHg là trung bình. Chỉ số huyết áp thường phụ thuộc vào lứa tuổi và giới tính. Chỉ số huyết áp là chỉ số tương đối ổn định, trong tập luyện thể dục thể thao huyết áp ít thay đổi.

- Hệ hô hấp: Ở lứa tuổi từ 18 - 22 hệ hô hấp của các em phát triển tương đối hoàn chỉnh, các cơ hô hấp đã phát triển mạnh, sự điều tiết của hệ thần kinh trung ương đối với việc thở được bền vững và nhịp nhàng. Trong hoạt động thể dục thể thao lượng thông khí phổi tăng dần lên theo công suất hoạt động. Hoạt động với công suất thấp, thông khí phổi tăng lên chủ yếu là


tăng khí lưu thông. Hoạt động với công suất tăng dần thì tần số hô hấp tăng song song với thông khí phổi, khí lưu thông tăng lên gần tới giới hạn của dung tích sống. Để xác định dung tích sống người ta dùng phế dung kế. Lứa tuổi thanh niên có tần số thở khoảng 10 - 12 lần/phút. Đây là lứa tuổi tương đối thuận lợi để phát triển chức năng hô hấp [2], [37].

1.4.3. Yếu tố về thể lực và cơ sở phát triển [2], [4], [5], [15], [22]

Việc huấn luyện thể lực chiếm vị trí quan trọng trong quá trình đào tạo các vận động viên cầu lông. Sự phát triển nhanh chóng sức nhanh, sức mạnh - tốc độ và sức bền chuyên môn của vận động viên cầu lông đóng vai trò to lớn trong việc đạt thành tích cao.

Trong thực tiễn thể thao, việc tuyển chọn các vận động viên cầu lông thường dựa trên kết quả của các test chuyên môn. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà chuyên môn cho thấy sự phát triển thể lực của các vận động viên cầu lông không xảy ra đồng đều. Sự phát triển mạnh nhất của các tố chất thể lực diễn ra ở 1,5 năm đầu tập luyện. Xu hướng đó biểu hiện đặc biệt rõ ở tố chất tốc độ. Sau 1,5 năm tập luyện, trình tự mức độ phát triển các tố chất thể lực như sau: sức nhanh, sức bền chuyên môn, sức mạnh, sức mạnh - tốc độ.

1.4.3.1. Cơ sở sinh lý huấn luyện sức nhanh [2]:

Trong hoạt động TDTT, sức nhanh là một trong những tố chất không thể thiếu. Khái quát về sức nhanh là khả năng hoạt động nhanh và có những biểu hiện như sau:

- Thời gian tiềm tàng của phản ứng vận động.

- Tốc độ động tác đơn.

- Tần số động tác.

Trong thực tiễn hoạt động sức nhanh thường để thể hiện một cách tổng hợp, sự liên kết động tác và phối hợp động tác luôn gắn bó và logic với nhau.


Sức nhanh của động tác là một trong những cơ sở quyết định hoạt động trong nhiều môn thể thao. Cơ sở thể lực của khả năng tiến hành nhanh trong từng động tác riêng lẻ là năng lực sức mạnh nhanh và khả năng tốc độ.

Những yếu tố ảnh hưởng đến sức nhanh là độ linh hoạt của quá trình thần kinh, tức là phụ thuộc vào tốc độ luân chuyển giữa trạng thái hưng phấn và ức chế của trung khu vận động, hàm lượng ATP dưới ảnh hưởng của xung động thần kinh, cũng như tốc độ tái tổng hợp nó. Quá trình tổng hợp ATP (Adenosin Triphosphat) hầu như được thực hiện theo cơ chế yếm khí. Năng lượng hoạt động sức nhanh của con người mang tính chất đặc thù chuyển sức nhanh trực tiếp đều có cấu trúc giống nhau.

1.4.3.2. Cơ sở sinh lý huấn luyện sức bền [2].

Sức bền là năng lực thực hiện một hoạt động cho trước, hay năng lực kiên trì, khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể có thể chịu đựng được trong quá trình hoạt động.

Sức bền đảm bảo cho vận động viên duy trì cường độ tốt nhất trong thời gian vận động kéo dài của thi đấu, tương ứng với khả năng tập luyện của mình, bên cạnh đó còn đảm bảo chất lượng động tác cao, giải quyết tốt các hành vi kỹ thuật. Do đó, sức bền không những là nhân tố xác định và ảnh hưởng đến thành tích thi đấu, mà còn là nhân tố xác định thành tích tập luyện và sức chịu đựng lượng vận động của vận động viên.

Sức bền trong cầu lông là khả năng duy trì hoạt động với thời gian dài và cường độ lớn. Hoạt động thi đấu cầu lông được tính theo hiệp đấu với thời gian không cố định. Trung bình một hiệp kéo dài từ 15 - 30 phút, thời gian của từng hiệp và từng trận đấu phụ thuộc rất nhiều vào trình độ toàn diện của cả hai bên. Một trận đấu của hai đối thủ có trình độ cao và tương đương nhau nếu phải đánh cả ba hiệp có thể kéo dài tới 90 phút. Cùng với thời gian thi đấu kéo dài và tình huống của mỗi trận đấu. Điều này đòi hỏi ở mỗi vận động viên


một trình độ chuẩn bị thể lực cao và đặc biệt là sức bền chuyên môn để có thể duy trì hoạt động thi đấu lâu dài qua mỗi trận đấu và trong cả giải.

Sức bền trong cầu lông thể hiện ở sự duy trì hoạt động của hầu hết các cơ quan trong cơ thể. Đó là sự phối hợp liên tục các hoạt động của tay và chân trong các động tác di chuyển, bật nhảy, đánh cầu rồi lại di chuyển, bật nhảy, đánh cầu… là sự duy trì hoạt động lâu dài của hệ thống thần kinh thông qua các hoạt động phán đoán, xử lý tình huống đánh cầu sao cho đảm bảo hiệu quả cao nhất của mỗi lần thực hiện kỹ thuật. Điều này đòi hỏi ở sự phát triển toàn diện và duy trì mức độ cao năng lực hoạt động của hệ thống cung cấp năng lượng trong cơ thể cho mỗi vận động viên.

Sức bền trong cầu lông được thể hiện là sức bền mạnh và sức bền nhanh.

Như đã phân tích trong các bài huấn luyện sức nhanh và sức mạnh, đặc điểm động tác thể hiện trong cầu lông ở bất cứ tình huống nào cũng đòi hỏi về sức mạnh tốc độ và sức nhanh của động tác. Quá trình thi đấu vận động viên không chỉ được thực hiện một vài lần di chuyển, bật nhảy hay đánh cầu mà những kỹ thuật này được thực hiện liên tục và duy trì ở cường độ cao trong suốt cả trận đấu. Sự giảm sút về sức mạnh và sức nhanh trong quá trình thi đấu thể hiện năng lực sức bền của vận động viên còn thấp và điều này tất yếu sẽ dẫn đến hiệu quả thi đấu không cao.

1.4.3.3.Cơ sở sinh lý huấn luyện sức mạnh[2]:

Sức mạnh là một trong những tố chất quan trọng của con người, nó là năng lực khắc phục sức cản bên ngoài nhờ sự hỗ trợ của cơ bắp. Sự xuất hiện của sức mạnh phụ thuộc vào trạng thái của hệ thần kinh phù hợp với những hoạt động của vỏ đại não và tiết diện sinh lý của cơ bắp, các quá trình biến đổi sinh hoá cơ bắp, sự biến đổi hưng phấn cơ bắp, mức độ mệt mỏi của cơ bắp, và tư thế con người và nhiều nguyên nhân khác...


Sức mạnh tối đa là sức mạnh lớn nhất sản sinh nhờ khả năng của hệ thần kinh - cơ khi cơ bắp co, duỗi tùy ý với mức độ lớn nhất.

Sức mạnh nhanh (hay còn gọi là sức mạnh tốc độ) là khả năng thần kinh - cơ khắc phục lực đối kháng với tốc độ co duỗi lớn của cơ bắp, khả năng hoạt động của sợi cơ nhanh kéo dài trong khoảng thời gian dài.

Sức mạnh bền là khả năng chống lại sự mệt mỏi của cơ thể vận động khi vận động sức mạnh kéo dài. Các môn khác nhau nên đặt ra những yêu cầu khác biệt về tố chất sức mạnh. Trong hoạt động thể dục thể thao sức mạnh luôn có mối quan hệ với các tố chất thể lực khác như sức nhanh và sức bền. Với những nguyên nhân này cần phải xác định các yêu cầu về năng lực sức mạnh theo đặc trưng của môn thể thao, năng lực sức mạnh tối đa có giá trị cao đối với thành tích các môn: đẩy tạ, ném lao, tạ xích...

Sức mạnh tốc độ đặc biệt quan trọng đối với việc nâng cao thành tích của các môn chạy, nhảy và kể cả các môn ném đẩy, chạy cự ly trung bình. Sức mạnh tốc độ có tác dụng hoàn thiện khả năng thực hiện động tác nhanh, sức mạnh tốc độ xác định thành tích trong các môn vận động theo chu kỳ. Sức bền cần phải khắc phục sức cản lớn trong một thời gian dài.

Có 2 hình thức vận động sức mạnh:

- Hình thức vận động khắc phục.

- Hình thức vận động nhượng bộ.

- Hình thức vận động khắc phục: hình thức vận động này, nội lực có thể khắc phục được ngoại lực với tốc độ nhanh nhất tương ứng với độ lớn của lực cản lựa chọn và mục đích của buổi tập sức mạnh. Hình thức vận động khắc phục đặc biệt thích hợp với huấn luyện sức mạnh các môn thể thao có ưu thế về chế độ hoạt động khắc phục hệ thần kinh cơ, trong đó tiến trình lực - thời gian cần phải phù hợp rộng rãi với các yêu cầu và nhiệm vụ thi đấu chuyên môn.


- Hình thức vận động nhượng bộ: trong huấn luyện sức mạnh tối đa, ngoại lực có thể nhiều hơn 100% năng lực sức mạnh tốc độ. Tác dụng lực vượt mức này xuất hiện khi nội lực cao nhất được sử dụng, trong đó các cường độ co cơ tối đa cần thiết cho toàn bộ phạm vi biên độ động tác. Ngoài ra và tốc độ vận động nhỏ thích hợp trong huấn luyện sức mạnh tối đa, do đó trong hình thức này cần phải bảo đảm một cường độ vận động tối đa trong thời gian co cơ tối ưu.

Đặc điểm của thi đấu cầu lông là vận động viên luôn phải di chuyển liên tục với tốc độ cao trong phạm vi diện tích sân của mình bằng các bước chạy hoặc bật nhảy, cùng với đó là việc kết hợp các động tác đánh cầu hợp lí, nhanh, mạnh để thực hiện ý đồ chiến thuật của mình trong thi đấu nhằm giành hiệu quả cao. Vì vậy, sức mạnh trong cầu lông thường được thể hiện ở các động tác xuất phát (từ vị trí chuẩn bị để di chuyển đến vị trí đánh cầu), các động tác bật nhảy, khả năng di chuyển nhanh và các động tác đánh cầu đòi hỏi phát huy lực tối đa của cơ thể như động tác đập cầu.

Một yêu cầu quan trọng khi sử dụng sức mạnh trong các động tác kỹ thuật của cầu lông là cần phát huy tối đa để tăng cường hiệu quả của kỹ thuật đó và gây cho đối phương những tình huống bất ngờ, bị động trong quá trình thi đấu. Đồng thời phải duy trì được sức mạnh đó trong suốt thời gian dài của quá trình thi đấu, không phải chỉ trong từng trận mà trong suốt thời gian diễn biến của một giải.

Phát triển sức mạnh - tốc độ đòi hỏi không những phải nâng cao tốc độ co cơ mà còn phải nâng cao sức mạnh tối đa. Ý nghĩa của sức mạnh tối đa này đối với năng lực sức mạnh nhanh phụ thuộc vào các yêu cầu của cấu trúc thành tích môn thi đấu. Trong những môn mà sức mạnh tối đa là cơ sở quyết định tốc độ vận động tối ưu thì phải phối hợp huấn luyện sức mạnh tối đa với sức mạnh nhanh với nhau.

Xem tất cả 196 trang.

Ngày đăng: 20/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí