XVII thuộc xã Đông Lâu, huyện Yên Phong: Từ Sơn Phủ, Yên Phong huyện, Đông Lâu xã, Đông Xuyên thôn, hương lão khoảng hơn 300 người
cung tiến, trong đó có quan Tri phủ phủ sĩ Nguyễn Văn Tình 阮 文 情 , tự
Pháp Hải 法海 cùng vợ cung tiến.
Mặt 4 [23387] Chính Hưng công Thiên đài, Đông Ngàn huyện, Đông Xuất xã, Cầu An thôn thôn, trụ trì tăng Đỗ Như Châu 杜如珠 tự Pháp Thụy 法瑞 hiệu Thông Trí Quảng Độ thiền sư 通智廣度禪師 thiếp Mẫn Thị Vinh 閔氏榮 hiệu diệu Ninh 妙寜.
LI. Nhất trụ 壹 柱 [No: 23352], kích thước: 21 x 81 cm; địa chỉ: Chùa Cổ Phúc, thôn Phù Cầm, xã Dũng Liệt, huyện Yên Phong, cây hương 4 mặt, in 2 mặt có chữ.
Tóm tắt nội dung:
Nội dung ghi những người cung tiến: Tùy duyên hội chủ toàn xã, quan văn thư, sĩ vương, đăng khoa...
Trùy duyện hội chủ phụ nữ Bùi Thị Quận.
LII. Sáng lập tịnh quang thiên đài quán tự 創立浄光天臺觀寺[No: 35657
- 35660]; Quán tự [No: 35659]; Kích thước: 12 x 100 cm; Địa chỉ: chùa Bản Thiện, thôn Cứu Sơn, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, Bắc ninh(mặt 4), lạc
khỏa đề: gày tốt, mạnh thu (tháng 7) năm Vĩnh Thịnh nguyên niên (1703) 永
盛元年七月孟秋穀日; Nam tử: nguyễn Danh Khôi viết, Hiệp Sơ Kính Chủ Vũ Công Đan
Mặt Thiên đài 天 臺 [No: 35660] có đôi câu đối:
年年密念通三介日日焚香透九天
Niên niên mật niệm thông tam giới Nhật nhật phần hương thấu cửu thiên Câu đối 5 từ:
証明成功德
降福永流傳
Chứng minh thành công đức Giáng phúc vĩnh lưu truyền.
Mặt có chữ Tịnh Quang [No: 35658] chữ hơi mờ, khó đọc ghi nhiều người cung tiến. Tuy nhiên, riêng 1 mặt bia [No: 35657] dành ghi riêng cho Nguyễn Quang Hoàn tự Phúc Đức, chính thất Nguyễn Thị Hảo, hiệu Từ Trung cùng con trai Nguyễn Danh Khôi, Nguyễn Danh Nguyên, con gái Nguyễn Thị Tấn, Nguyễn Thị Trường, Nguyễn Thị Ba hưng công một trụ đá vào tháng 7 năm Kỷ Dậu.
Mặt 1: Bảo Tháp tự bi ký Đại công đức 寳塔寺碑記大功德 [No: 40091].
Phần đầu ghi: Phù tự giả, đạo tràng dã, bi giả thọ thạch dã 夫寺者道場也
碑者夀石也. Chùa tức là đạo tràng đấy, bia là đá bền vậy. Cho nên nói, bia là để ghi lại sự việc. Hải Dương xứ, Thượng Hồng phủ, Cẩm Giàng huyện, Bảo Đào xã, xưa có danh lam. Cảnh đẹp, hướng Càn Hợi139, đột nhiên nổi lên một gò cao, phía bên trái là thanh long trùng trùng, phía bên phải là Bạch
Hổ cuồn cuộn chầu về, ngòi nhỏ chảy vòng qua phía Nam (Chu tước), sông uốn vòng sang phía Bắc (Huyền Vũ), đây thực là hình thế đẹp nhất đấy (左青龍重重拱服右白虎滾滾朝来,小溪遶於朱雀水環抱於玄武其為弟一之形勢也).Bia này ca ngợi chúa Trịnh: Nhờ cậy vào: Đại Nguyên Soái, Thống
quốc chính, Thái Thượng sư phụ công cao nhân thọ Thanh Vương (Trịnh Tùng - Tg), có công chỉnh đón càn khôn, giúp mặt trời mặt trăng ở giữa trời đất, giúp cho cơ đồ, xã tắc yên ổn. Nay có người bản thôn là Thị Nội cung tần Lương Thị Ngọc Minh (xã Thực Đào, huyện Cẩm Giàng) thực là người được thừa hưởng khí chất của gười cha là, khuôn mẫu quý tộc... bà đã bỏ ra không biết bao nhiêu quan tiền để xây dựng, mua gỗ, xây tường bao quanh... công đức như thế thì đời đời nổi tiếng, công danh đời đời được coi trọng ở đời, quốc gia cùng toàn thể gia đình được hưởng lộc trời. Phần cuối là bài minh 30 câu trong đó có những câu ca ngợi phong thủy:
Nguyên văn chữ Hán:
139 Tức toạ Đông, hướng Tây Bắc.
幸生貴族 侍内府宮至尊至敬 曰則曰工 |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu văn bia Phật giáo thế kỷ XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh - 35
- Nghiên cứu văn bia Phật giáo thế kỷ XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh - 36
- Nghiên cứu văn bia Phật giáo thế kỷ XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh - 37
Xem toàn bộ 311 trang tài liệu này.
右施白虎
Phiên âm:
Hạnh sinh quý tộc Thị nội phủ cung Chí tôn chí quý Viết tắc viết công |
Dịch nghĩa:
May sinh quý tộc Thị Nội cung tần Rất tôn rất quý Thi ắt có công |
Mặt 2: [No: 40092], kích thước: 74 x 104 cm; Bia chùa thôn Kim Thao, xã Lâm Thao, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh; bia gần 1000 chữ; dòng lạc khoản ghi: Thượng Hồng phủ, Cẩm Giàng huyện, Thực Thao xã, lão vãi Vũ
Thị Ngọc Viên 武氏玊圓 hiệu Từ Bảo 慈寶 cùng con gái là Vương phủ Thị
nội cung Lương Thị Ngọc Minh 粱氏玉明 tạo hưng công 1 tòa thượng điện, thiêu hương, tiền đường, tả hữu hành lang, bia đá trước án, tường vâng bốn chung quanh cùng am Thụy Quang, trùng tu 2 tòa đình và miếu thờ. Bà được
tôn làm hậu thần. Bà cung tiến 4 mẫu ruộng, ao để làm nhu phí thờ cúng khi bà qua đời. Vũ Thị Ngọc Viên 武氏玊圓 hiệu Từ Bảo 慈寶 cũng cung tiến 4
mẫu cho mẹ là Hiển tỷ Vũ Thị hiệu Từ Ảo, giỗ ngày 27/7 làm Hậu Phật, cúng 4 mẫu ruộng vào Tam bảo. Năm Giáp Thân, trùng tu thượng điện hết 3 dật bạc, 40 quan tiền, đắp tượng hết 6 quan tiền. Năm Kỷ sửu tu tạo đình, tường xây chung quanh. Năm Canh Dần lại qua huyện Lục Ngạn mua gỗ lim. Ngày 28/3 năm Tân Mão xây mới bảo tháp cùng các tòa tổng cộng hết hơn 180 quan tiền; dựng bia đá hết hơn 20 quan. Tổng số hết 36 dật bạc, 460 qua tiền, mua gỗ lim kết bè để đem về bản quán xây dựng chùa Bảo Tháp.
Phần cuối dòng lạc khoản ghi: Khánh Đức tam niên thập nhị nguyệt, sơ nhất nhật, Thuận Giang đồn gấp, Tiến công lang, Tăng lục ty, Tăng thống,
Thống tri Nguyễn Tự Pháp Thọ (soạn), Lỗ Xá xã Nho sinh Văn Nho Tử Nguyễn Nhĩ (viết).
LIII. Bia Công đức vĩnh thùy 功德永垂 [No: 40093], kích thước bia: 46 x
66, cm. Bia có 1 mặt; Địa chỉ: Chùa thôn Kim Thao, xã Lâm Thao, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
Niên đại bia: Ngày tốt, tháng mạnh hạ (tháng 4) năm Chính Hòa thứ 16 (1695); Người soạn: Tứ Canh Tuất khoa, đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, Quang tiến thận lộc đại phu, bồi tòng hình bộ Tả thị lang, thị kinh diên, Cẩm
Giàng, Nghĩa Phú Nguyễn Độn Phu bộc 義富阮钝夫樸 (soạn); Thuận
Lương Phạm Công Tướng 范 公 相 (viết).
LIV. Vô đề [No: 40109], chùa làng Sen, thôn Ngọc Quan, xã Lâm Thao, huyện Lương Tài, Bắc Ninh; Bia có kích thước: 110 x 112 cm, khoảng 1500 chữ. Bia chia làm 2 phần với 2 phong cách chữ khác nhau. Phần đầu ghi: Thập phương thiện nam, tín nữ công đức và phần thứ 2: Hiển am Sùng
Quang tự thiền tháp ký 顯安庵崇光寺禪塔記 viết: “nhi ngô nho chi sở vị
chi ất hủ dã. Thiền tháp giả sa môn Như Lý thiền sư, xá lợi chi sở tàng quyết sơ đầu sinh vu hoài an thanh bộ chi Lê tính, thiếu tập ho nghiệp cập trưởng tòng Vĩnh Long tự. Hư Tạo thiền sư vấn đạo toại nãi lịch du Cẩm Giàng, Văn Thai, Dương Đường tự ký hựu ư sung Quang tự trụ trì, thủy mộ tài cưu công đại sáng tự vũ, san kinh tạo tượng, chú chung, điều kiều tầm nhập Yên
Tử sơn, Long Động tự 龍洞寺 nghênh chí hòa thượng Chân Nguyên thiền
sư, mật thụ phó chúc....(dịch nghĩa: Mà nhà nho ta gọi là bất hủ đấy!. Tháp là nơi tàng giữ xá lợi của vị Thiền sư, là Sa môn Như Lý 沙 門 如 理 . Ban đầu ngài sinh ra ở Hoài An 懷 安 , Thanh Bồ 青 蒲 , người họ Lê. Khi còn nhỏ học nghiệp Nho, khi lớn vào chùa Vĩnh Long 永 龍 寺 học đạo ở nhà sư Như
Tọa 如座禅師, rồi trải qua đi vãn cảnh ở chùa Án Đường, Văn Thai, Cẩm Giảng rồi mới trụ trì ở chùa Sùng Quang, kêu gọi tiền của, triệu tập công
đức, xây dựng chùa chiền, khắc kinh Phật, tạo tượng, đúc chuông, làm cầu rồi lại vào chùa Long Động để đón Hòa thượng Chân Nguyên thiền sư 和 尚 真 源 禪 師 mật truyền cho việc xây dựng cửu phẩm liên hoa, từ đó trở thành
một đại danh thắng ở đất Bắc. Bỗng nhiên nhà sư hóa, cảnh và người như vẫn còn đầy đủ vậy. Tiểu tăng được sư truyền y bát cho nên muốn tạo tháp để phụng thờ để còn mãi với danh danh thắng tích. Năm Tân Tỵ thì hoàn thành. Xin bài văn của tôi. Tôi trước đây cùng với Thiền sư cũng đã biết đến nhau (...), không phải là coi Nho và Phật mà có cách nhìn chia ngả, vả lại việc tiểu tăng (học trò) có chí trong sáng như thế nên tôi đã nhận viết ngay.
Phần sau ghi tên của các môn đồ (học trò) trong đạo tràng gồm: Tính Lưu
性瑠; Tính Đàn 性坛; Hải Thiệu 海紹; Hải Chí 海至; Hải Am 海庵; Tính
Nhượng 性讓; Hải Biện 海瓣; Hải Nhật 海日; Hải Bội 海倍; Hải []; Hải
Ngoạn 海玩.
Phần tiếp sau ghi danh các môn đồ là ni sư gồm: Diệu Hành 妙行, Diệu
Khoản 妙欵, Diệu Đa 妙多, Diệu Lan 妙蘭, Diệu Dụng 妙用, Diệu Khang
妙康. Những đệ tử là tăng, ni đều đóng góp tiền để xây tháp cho thầy. Tiếp theo là danh sách quan viên bản xã công đức. Phần lạc khoản ghi: Ngày 27, tháng 3 năm Cảnh Hưng thứ 22 (1761).
Người viết bia là: Tứ Mậu Thìn khoa, Tiến sĩ nhập thị Thiêm sai, Tri thị nội thư tả, Lễ [] Tây đạo giám sát ngự sử Thọ đình thôn, Vũ Giới (Phủ soạn); Nhâm Tý khoa, thí trung thư lộng đề lại xã Ngô Phần Phạm Bút (viết).
LV. Bia Vô đề, 3 mặt, [No: 23475/ 23476/23477], chùa Xuân Hải, xã Hoàn Long, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh; Kí hiệu: 23475, kích thước 49 x 76 cm; khoảng 250 chữ; địa chỉ bia chùa Xuân Ải, (xã Hoàn Long, huyện Yên Phong, Bắc Ninh).
Tóm tắt nội dung:
Bia kí bầu Hậu thần kiêm Hậu Phật. Nay bản xã thấy người phường Vạn
Lạc 萬落坊(bản huyện) là Nguyễn Đắc Đương tự Phúc Thọ thiếp là Bùi Thị Hiếu hiệu Diệu Thuận, quả là một gia đình có lòng thiện, bỏ ra nhiều tiền của, nhân đó, bản thôn trên dưới bầu ông bà làm Hậu để bảo cho dân được yên. Từ nay đến ngày làng vào đám (nhập tịch), lễ kỳ phúc ở trong khám
tạng, bản thôn xin được chiếu theo lệ để kính bi. Sau này ông bà trăm tuổi thì khi hương hỏa phối thờ nội ngoại, hiển phụ, hiển mẫu, song thân tứ hồn, căn
cứ vào trong bia không được khuyết thiếu. Phần cuối ghi số ruộng cung tiến của ông bà là 4 mẫu và 1 miếng ao. Đến ngày giỗ của ông là ngày 23 tháng 7; dùng 1 miếng thịt lợn, 1 mâm xôi, 1 vò rượu, 1000 tiền vàng và 1 chiếc áo; Ngày giỗ bà là ngày 26 tháng 2; dùng 1 khẩu thịt lợn, 1 mâm xôi, 1 vò rượu, 100 tiền giấy và 1 bộ quần áo giấy. Phần tiếp theo ghi tên và giáp giới các xứ đồng. Hằng năm cúng tam sinh, mỗi tháng vào hai tuần sóc (mồng 1) và vọng (rằm), người trồng cấy ruộng phải đích thân đem gạo vào chùa để làm oản cúng ở trước bia. Cuối bia còn ghi thêm: Vào dịp tuần tiết, nếu người nào coi giữ từ đường, mỗi lần sóc vọng phải quyét dọn.
Người viết bia là xã trưởng Nguyễn Đăng Bản.
Niên đại bia: ngày tốt tháng 2 năm Canh Thân năm Vĩnh Hựu thứ 6 (1740).
LVI. Nhất bản xã thập phương công đức 一本社十方功德 [No: 23546],
chùa Thiên Phúc, thôn Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện Yên Phong, Bắc Ninh; khoảng 1200 chữ; Người soạn: Trụ trì bản xã tăng Nguyễn Hữu Sử 阮 有 史 , tự Đạo Nguyên 道 源 (66 x 109 cm).
Phần đầu ghi: Nhất Hội chủ, bản phường khoán thủ, trùm trưởng, hương lão thượng hạ, nam nữ đẳng hứa bản tự mãi mại thuyền tam chích đắc tiền nhị bách thập quan (Dịch nghĩa: Hội chủ, bản phường khoán thủ, trùm trưởng, hương lão trên, dưới, nam nữ cùng với bản xã mua bán 3 chiếc thuyền được 210 quan) .
壹會主本坊券守村長. 一會主本僧阮有史字道源.
Lạc khoản đề: Tuế tại Kỷ tỵ, tam nguyệt, cốc đán [](Ngày tốt, tháng 3 năm Kỷ Tỵ), huyện, [Ty Thắng xã] Nguyễn Đăng Giáp viết bia, Thiền Tăng
Hòa thượng Nguyễn Đạo Diễn (nhuận) 歲在己巳,三月,榖旦.[]縣絲勝社,
阮登甲寫.碑禅僧和尙阮登演潤.
LVII. Tín thí 信弛. Bia 2 mặt: [No: 23549/ 23550];
- Mặt bia kí hiệu [No: 23549]; (Chùa Thiên Phúc, thôn Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh);
Nội dung tóm tắt:
Phần đầu ghi: Từ Sơn phủ, Yên Phong huyện, Đại Lâm xã có chùa Thiên Phúc cổ, khai sáng từ triều trước, đến nay các sãi vãi cùng nhau đồng lòng đem gia tài của cải công đức xây dựng. Năm Ất Dậu, mua gỗ (mãi sắc mộc
買 色 木 ) đến ngày tốt, tháng giữa xuân, năm Bính Tuất, tân tạo tiền đường
lại trùng tu thượng điện hoàn hảo, trùng tu hậu đường, tả hữu hành lang, gác chuông, đắp tô tượng Phật (nguyên văn: tố hội Phật tượng 塑繪佛像) hơn 80 pho tượng (外八十相) cùng với xây dựng tường bao, cột rồng(long trụ),
cửa rồng (long môn) nguy nga, trong ngoài trang nghiêm.
Phần lạc khoản ghi: Đại Đầu Đà, tỳ kheo, quy tùy bái lẫm, Phụng phán, gia trì tiến phát, Khai quốc công thần Phó Hòa Thượng Nguyễn Đạo Diễn,
pháp hiệu Nam Nhạc thiền sư. 大頭阤毗丘歸随拜禀奉判加持進發開國功
臣副和尙阮道演法号南岳禪師.
Ngày 15 tháng 8, Đồ Lê năm Phúc Thái thứ 6 (1648), Đồ Lê Nguyễn Đức Toàn thủ khán soạn minh kiêm bút (闍棃)阮德全守看撰銘兼筆 (Thầy
Nguyễn Đức Toàn, Khán thủ soạn bài minh bia và viết chữ).
Mặt bia: [No: 23550], 71 x 130 cm; ghi danh khoảng 150 người cung tiến;
LVIII. Thiên Phúc tự bi điền 天福寺碑田 [No: 23551], bia có một mặt, chùa Thiên Phúc, thôn Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh;
Tóm tắt nội dung:
Tóm tắt nội dung:
Phần đầu bia ghi: Từ Sơn Phủ, Yên Phong huyện, Đại Lâm xã, lão hạng Hoàng Viết Đô hiệu Thọ Lăng 夀 陵 chân nhân.
Đoạn viết về gia thế của người cung tiến đồng thời là nhân vật được thờ làm Hậu Phật như sau: “Cái văn: Kinnh Bắc, Từ Sơn, Yên Phong xã, Đại tộc Hoàng
hiển khảo, Nguyễn tính mẫu thân sinh đắc Hoàng Viết Đô 黄曰都, lập thân kế
nghiệp, gia truyền thời dược bí nghiệm âm dương, thân hiểu pháp mô kiêm tài bốc thệ phụ truyền, án mạch nghiệm thủ phân minh, quyết sở mục, tiền nhân
dân sở đãi tứ thập tuế vô tự....立身继業家傳時藥秘險陽身曉法門兼才卜誓
父傳按脉驗手分明決所目前人民所待./.