Nghiên cứu văn bản Quốc sử di biên - 2


Năm 2002, Cử nhân Nguyễn Tô Lan trong khóa luận thực tập tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng đã đi sâu nghiên cứu tập Hạ của QSDB. Khác với GS.Trần Kinh Hòa, từ việc thống kê cụ thể các sự kiện tương đồng với ĐNTL Nguyễn Tô Lan đã đưa ra một số nhận xét khá thuyết phục. Tuy nhiên, do khuôn khổ hạn chế của khóa luận thực tập, cử nhân Nguyễn Tô Lan cũng chưa có dịp đi sâu nghiên cứu toàn diện tác phẩm, cũng không có điều kiện giới thiệu chi tiết cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Phan Thúc Trực trong đó có Trần Lê ngoại truyện - tác phẩm được coi có liên quan đến QSDB nên đưa ra những nhận xét có phần chủ quan về tác phẩm này.

Năm 2009, TS. Nguyễn Thị Oanh trong bài viết giới thiệu QSDB cho tác phẩm dịch QSDB - công trình cấp Viện, nghiệm thu ngày 15 tháng 7 năm 2009 tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, đã đi sâu phân tích một số nội dung của QSDB. Từ việc so sánh đối chiếu một số mục "Tham bổ", "Ngoại truyện" trong QSDB với phần chính văn của tác phẩm này, tác giả bài viết đã đưa ra nhận định từ những căn cứ tương đối xác đáng rằng Trần Lê ngoại truyện không liên quan đến QSDB . Đồng thời, qua việc đi sâu phân tích, đánh giá nội dung của QSDB, tác giả bài viết cũng đã nhấn mạnh một số giá trị mà tác phẩm đem lại. Đây là những gợi ý hữu ích cho tác giả luận văn trong việc thực hiện những mục tiêu mà luận văn đặt ra. Tuy nhiên, do giới hạn của bài giới thiệu QSDB nên tác giả bài viết cũng chưa có điều kiện giới thiệu tỉ mỉ về tác giả Phan Thúc Trực và những trước tác của ông. Tác phẩm Trần Lê ngoại truyện đã được tác giả bài viết giới thiệu khái quát, song nội dung chi tiết của tác phẩm vẫn chưa được làm sáng tỏ. Việc so sánh QSDB bản chép tay ký hiệu A.1045/1-2 (VHN) với sách QSDB xuất bản tại Hồng Kông cũng chưa được thực hiện. Việc so sánh QSDB với ĐNTL cũng mới dừng ở một số sự kiện, chưa có thống kê tỷ mỉ các sự kiện không xuất hiện trong ĐNTL, hay những sự kiện có sự xuất nhập giữa hai tác phẩm...


Tóm lại các nhà nghiên cứu đi trước đã đạt nhiều thành tựu trong việc nghiên cứu QSDB. Những thành tựu này chúng tôi xin kế thừa và tiếp tục triển khai những vấn đề các nhà nghiên cứu chưa có điều kiện thực hiện, theo giới hạn mà luận văn đặt ra.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


3.1. Đối tượng:


- Quốc sử di biên, bản chữ Hán, ký hiệu A.1045/1-2 (VHN) (bản chữ Hán và bản dịch Quốc sử di biên của Phòng Nghiên cứu văn bản Lịch sử - Địa lý do TS.Nguyễn Thị Oanh chủ biên).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.

- Trần Lê ngoại truyện, bản chữ Hán, ký hiệu A.1069 (VHN).


Nghiên cứu văn bản Quốc sử di biên - 2

- Quốc sử di biên , bản chữ Hán do Viện nghiên cứu Tân Á, Trường Đại học Trung văn Hồng Kông xuất bản năm 1965. Bản này do Phó tiến sĩ Onishi Kazuhiko (Nhật Bản) cung cấp.

3.2. Phạm vi nghiên cứu:


Phạm vi nghiên cứu là tác phẩm QSDB và một số tác phẩm có liên quan như Trần Lê ngoại truyện, nhằm làm sáng tỏ một số một số vấn đề văn bản, giá trị tác phẩm. Ngoài ra, để làm sáng tỏ cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Phan Thúc Trực, tác giả luận văn sẽ lần lượt giới thiệu các tác phẩm thơ văn còn lại của Phan Thúc Trực như Cẩm đình văn tập, Cẩm đình thi tập Cẩm đình thi văn toàn tập hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Do chưa có điều kiện sưu tầm các tác phẩm của Phan Thúc Trực ở các thư viện khác, xin ghi nhận ở đây sự khiếm khuyết về mặt tư liệu. Chúng tôi sẽ bổ sung số tư liệu này (nếu có) trong công trình nghiên cứu toàn diện hơn về Phan Thúc Trực.


4. Phương pháp nghiên cứu


- Phương pháp văn bản học: Thu thập tư liệu, đối chiếu để nghiên cứu văn bản, so sánh phân loại, tìm các chữ húy, tìm hiểu một số quy định khi sao chép văn bản…

- Phương pháp thống kê định lượng: Thống kê, phân biệt sự xuất nhập các sự kiện giữa bản QSDB Trần Lê ngoại truyện, giữa QSDB ĐNTL.

- Phương pháp luận sử học: Tìm hiểu phân biệt các sự kiện lịch sử, những tác động của lịch sử trong quá trình hình thành văn bản.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Vận dụng phương pháp nghiên cứu của văn học, lịch sử, ngôn ngữ để đi sâu xem xét phân tích tác phẩm.

5. Những đóng góp của luận văn


- Làm sáng tỏ về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Phan Thúc Trực.


- Làm rõ vấn đề về văn bản QSDB qua việc so sánh đối chiếu với Trần Lê ngoại truyện - tác phẩm được các nhà nghiên cứu đi trước nhận định có liên quan đến QSDB và tác giả của nó là Phan Thúc Trực.

- Làm rõ những sai sót không tránh khỏi của bản QSDB in tại Hồng Kông .

- Làm sáng tỏ thời điềm ra đời của Quốc sử di biên.


- Làm nổi bật những giá trị về lịch sử, văn học, ngôn ngữ của tác phẩm

Quốc sử di biên.

6. Bố cục của Luận văn Phần mở đầu


1. Lý do lựa chọn đề tài


2. Lịch sử vấn đề


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


4. Phương pháp nghiên cứu


5. Những đóng góp của Luận văn


Phần nội dung


Chương 1: Phan Thúc Trực - cuộc đời và sự nghiệp sáng tác


1. Vài nét về bối cảnh lịch sử giai đoạn đầu thời nhà Nguyễn


2. Vài nét về tiểu sử Phan Thúc Trực


3. Sự nghiệp sáng tác


Chương 2: Một số vấn đề văn bản học của Quốc sử di biên


1. Về bản chép tay QSDB ở Viện Hán Nôm và QSDB in tại Hồng Kông.


2. Về thời điểm ra đời của QSDB


3. Về nội dung các mục "Tham bổ", "Phụ lục", "Ngoại truyện" trong

QSDB


4. Về Trần Lê ngoại truyện


Chương 3: Giá trị của Quốc sử di biên


1. Ý đồ và quan điểm biên soạn QSDB


2. Giá trị về sử học


3. Giá trị về văn học, ngôn ngữ


4. Một số hạn chế


Phần Kết luận


PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I


PHAN THÚC TRỰC - CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC

Trong chương này, chúng tôi xin giới thiệu khái quát về bối cảnh lịch sử giai đoạn đầu thời Nguyễn (từ 1802-1841) - thời kỳ gắn bó với tác phẩm QSDB và tác giả Phan Thúc Trực [1808-1852]. Tiếp đó, xin giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Phan Thúc Trực, nhằm làm sáng tỏ nhân cách và tài năng của ông trên lĩnh vực sáng tác thơ ca và biên soạn sách lịch sử.

1. Vài nét về bối cảnh lịch sử giai đoạn đầu thời nhà Nguyễn


Năm 1802 sau khi đánh bại triều Tây Sơn, làm chủ toàn bộ lãnh thổ Đàng trong và Đàng ngoài, Nguyễn Ánh tự đặt niên hiệu là Gia Long lập ra nhà Nguyễn. Các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819), Minh Mạng (1820-1840) đến Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) kế tiếp nhau xây dựng và củng cố nền thống trị, bảo vệ chế độ phong kiến trong bối cảnh khủng hoảng, suy vong. Tuy nhiên, trong hơn nửa thế kỷ tồn tại dưới triều Nguyễn, xã hội Việt Nam gần như không phát triển lên được theo chiều hướng tiến bộ của thời đại, mâu thuẫn xã hội gay gắt làm bùng nổ lên hàng loạt cuộc khởi nghĩa lớn của nhân dân, của các dân tộc ít người và cuối cùng trở thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.

Thành lập và thống trị trong thế kỷ XIX, nhà Nguyễn thừa hưởng được những thành quả to lớn của phong trào nông dân Tây Sơn trong sự nghiệp thống nhất đất nước, làm chủ một lãnh thổ trải dài từ ải Nam Quan đến mũi


Cà Mau. Để thể hiện vị trí của mình, năm 1803, Gia Long cử sứ bộ do Lê Quang Định đứng đầu, sang nhà Thanh xin quốc hiệu và đầu năm 1804 chính thức công bố tên là nước Việt Nam. Năm 1838, Minh Mạng bất bình đã khẳng định lại quốc hiệu là Đại Nam, kinh đô đóng ở Phú Xuân. Nhà Nguyễn ra đời và tồn tại không những trong một bối cảnh đặc biệt của đất nước mà còn trong tình hình thế giới có nhiều biến chuyển lớn. Thắng lợi của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu đã kéo theo sự phát triển của chủ nghĩa thực dân và của sự giao lưu buôn bán quốc tế. Hàng loạt nước châu Á lần lượt rơi vào ách đô hộ của thực dân, và Việt Nam không tránh khỏi mối đe dọa đó.

Về tổ chức chính quyền, từ sớm Nguyễn Ánh đã đặt quan, phong tướng cho những người phò tá. Sau khi lấy được toàn bộ Bắc Hà, Nguyễn Ánh xưng vương, kiểm lại hệ thống các đơn vị hành chính cũ, đặt quan chức cai quản. Đương thời Gia Long giữ nguyên cách tổ chức cũ , ở Đàng Ngoài vẫn là trấn, phủ, huyện, xã, ở Đàng Trong thì là trấn, dinh, huyện, xã. Về chính quyền trung ương, Gia Long, Minh Mạng giữ nguyên hệ thống cơ quan cũ của các triều đại trước, vua nắm mọi quyền hành một cách độc đoán, bên dưới là 6 bộ. Để đề cao hơn nữa uy quyền của nhà vua , Gia Long đặt lệ “tứ bất” (nhưng không ghi thành văn bản), tức là không đặt tể tướng, không lập hoàng hậu, không lấy trạng nguyên trong thi cử, không phong tước vương cho người ngoài họ vua. Bộ máy quan lại thời Nguyễn không cồng kềnh cũng không đông đảo, song khong vì thế mà bớt tệ tham nhũng, năm 1807 Senhô đã nhận xét: “ Dân chúng vô cùng đói khổ, vua quan bóc lột thậm tệ. Công lý là một món hàng mua bán, kẻ giàu có thể công khai sát hại người nghèo và tin chắc rằng với thế lực của đồng tiền, lẽ phải sẽ về tay chúng”. Do ý thức về sự mâu thuẫn của nhà nước và nhân dân, các vua Gia Long, Minh Mạng đã xử rất nghiêm hàng loạt những viên quan to, trong đó ít nhất là 11 Trấn thủ và Hiệp trấn tham nhũng bị cách chức hoặc xử tử. Mặc dù vậy tệ tham lại hàng loạt


vẫn không ngăn chặn được. Sự bất chính của quan trên đã tạo điều kiện cho bọ cường hào hoành hành…Năm 1855,Tự Đức vẫn còn thừa nhận: “ bọn tổng lý hương hào, nhà nào cũng giàu có, có kẻ tôi tớ hoặc một trăm người, hoặc sáu bảy mươi người, chiêu tập côn đồ, chứa ngầm binh khí, người trong một tổng, một làng hễ chúng hơi nhếch mép hất hàm là phải theo…”. Trong nhưng năm đầu của triều đại, hành động đáng phê phán nhất của nhà Nguyễn là sự trả thù Tây Sơn, năm 1802 trước khi hành hình Nguyễn Quang Toản, Gia Long phải bắt ông xem quân lính đào mộ Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cùng vợ chính, lấy hài cốt giã nhỏ, bỏ vào một cái bồ lớn, rồi đái vào…xương đầu thì bỏ vào ngục tối giam trong lâu đài. Đến lượt mình Quang Toản bị voi xé xác, chặt làm 5 khúc bêu ở 5 chợ. Các em của Quan Toản đều bị voi dày. Trần Quang Diệu bị chém làm trăm mảnh, vợ là Bùi Thị Xuân cũng bị voi dày cùng con gái. Bọn lính đã chia nhau ăn tim gan họ. Đến lượt Minh Mạng, năm 1831 cho lùng bắt toàn bộ hơn 100 con cháu nhà Tây Sơn đưa về xử tử hoặc dày làm nô tì.

Về quân đội chế độ binh dịch nặng nề, hầu như 3-4 đinh lấy một. Để giữ vững lòng trung thành của binh lính, nhà Nguyễn đặt chế độ ruộng lương rất hậu thêm vào đó là mức ruộng khẩu phần cao, tuy vậy tinh thần và chất lượng của quân đội ngày càng sa sút.

Về ngoại giao, thái độ của nhà Nguyễn trong quan hệ với nhà Thanh là thần phục một cách mù quáng. Trong lúc đó nhà Nguyễn lại dùng lực lượng quân sự khống chế Cao Miên, đặt thành Trấn Tây bắt Lào thuần phục. Qua n hệ với Xiêm cung thất thường, lúc thì thân thiện hòa hoãn, lúc thì tranh chấp. Đối với các nước phương tây, tinh thần đóng cửa, cự tuyệt vẫn được duy trì cho đến khi bùng nổ cuộc xâm lược của thực dân Pháp.


Về nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp thời Nguyễn khá đa dạng phong phú nhưng vẫn không vượt qua khỏi phương thức sản xuất cổ truyền. Chính quyền nhà Nguyễn cũng quan tâm đến việc đắp đê, nạo vét kênh mương nhưng trong công cuộc trị thủy nói chung không có kết quả gì khả quan, nhà Nguyễn đã tỏ ra bất lực. Trong khi đó thiên tai mất mùa, dịch bệnh xảy ra liên miên đã ảnh hưởng to lớn đến đời sống của nhân dân.

Về tình hình xã hội và đời sống của nhân dân, cũng như ở các triều đại trước, dưới thời Nguyễn, xã hội Việt Nam chia thành hai giai cấp lớn thống trị và bị trị. Giai cấp thống trị bao gồm vua, quan, thơ lại trong hệ thống chính quyền và giai cấp địa chủ. Vua và hoàng tộc giờ đây đã trở thành một lớp người đông đảo, có đặc quyền nhất là con cháu gần gũi của nhà vua. Họ có đinh thự, ruộng vườn rộng rãi và được một hệ thống cơ quan, đứng đầu là phủ Tôn nhân chăm lo bảo vệ. Các quan chức xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau nhưng do vị thế của mình đã trở thành người đối lập với nhân dân, hạch sách và bóc lột nhân dân, tất nhiên trong số họ cũng có người thanh liêm, trung thực biết lo lắng cho cuộc sống của nhân dân, sự ổn định của xã hội. Giai cấp địa chủ giờ đây đã trở thành một lực lượng đông đảo, vừa có thế ở quan trường vừa có nhiều quyền uy ở làng xã. Giai cấp bị trị bao gồm toàn bộ nông dân, thợ thủ công, thương nhân và một số dân nghèo thành thị. Lớp người bị lưu đày, nô tì cùng gia quyến sống ở các đồn điền cũng tăng lên đáng kể. Tuyệt đại đa số đời sống của nhân dân là vô cùng nghèo khổ, họ là lớp người gánh chịu mọi tai họa của tự nhiên, mọi thiệt thòi, bất công của xã hội. Những người dân có ít ruộng thì thuế khóa nặng nề, sự bất công và lộng hành làm cho người dân vô cùng cực khổ, bên cạnh đó thiên tai mất mùa xảy ra thường xuyên đe dọa cuộc sống của người dân nghèo. Sau mỗi lần vỡ đê lụt lội lớn, mùa màng hư hại, nhân dân phải bỏ làng đi phiêu tán kiếm ăn. Nhà nước Nguyễn tìm mọi cách cứu đói như mở các kho thóc phát chẩn, cho vay,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/09/2023