Đánh Giá Chung Về Thực Trạng Ứng Dụng Internet Marketing Tại Các Doanh Nghiệp Du Lịch Việt Nam


Kiểm tra vi phạm giả định liên hệ tuyến tính

Biểu đồ 3 18 Phân bổ phần dư chuẩn hóa Nguồn Kết quả khảo sát khách du 1

Biểu đồ 3.18: Phân bổ phần dư chuẩn hóa

Nguồn: Kết quả khảo sát khách du lịch của nghiên cứu sinh

Phần dư chuẩn hóa phân bổ ngẫu nhiên tập trung xung quanh đường tung độ 0 tạo thành dạng đường thẳng, do vậy giả định quan hệ tuyến tính giữa biến phụ thuộc với các biến độc lập không bị vi phạm.

Phân tích nhân tố khẳng định CFA-SEM:


Biểu đồ 3 19 Phân tích nhân tố khẳng định CFA SEM Nguồn Kết quả khảo sát 2

Biểu đồ 3.19: Phân tích nhân tố khẳng định CFA-SEM

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.

Nguồn: Kết quả khảo sát khách du lịch của nghiên cứu sinh


Theo Hair et al. (2009), các chỉ số được xem xét để đánh giá độ phù hợp mô hình Model Fit gồm:

CMIN/df = 1,605 < 2 là tốt CFI = 0,96 > 0,95 là rất tốt GFI = 0,96 > 0,95 là rất tốt TLI = 0,945 > 0,9 là tốt RMSEA = 0,048 < 0,08 là tốt

Do đó mô hình hoàn toàn phù hợp.

3.3. Đánh giá chung về thực trạng ứng dụng internet marketing tại các doanh nghiệp du lịch Việt Nam

3.3.1. Những thành công và nguyên nhân

3.3.1.1. Những thành công

- Các DNDLVN được đánh giá là nhanh nhạy hơn nhiều DN trong lĩnh vực khác trong việc sử dụng CNTT trong hoạt động internet marketing, đã có sự đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động IM và các hoạt động khác của DN. Theo kết quả khảo sát, với các DNLH, gần như trang bị máy tính cho tất cả các nhân viên trong DN do đặc điểm công việc đều liên quan đến máy tính và CNTT để kết nối với khách hàng. Tại một số DNLHVN trong mẫu nghiên cứu, số lượng máy tính/số lượng nhân viên chính thức trong mỗi DN lại nhiều hơn do có những nhân viên vừa được trang bị máy tính để bàn, vừa được trang bị máy tính xách tay để tiện trong quá trình đi gặp khách hàng. Đối với các cơ sở lưu trú, những nhân viên có liên quan đến hoạt động IM cũng đều được trang bị máy tính, có đường truyền kết nối tương đối ổn định. 100% DN trong mẫu nghiên cứu có website để tiến hành các hoạt động IM.

- Các DNDLVN đã thực hiện được một số công việc trong quy trình IM cần phải làm như nghiên cứu trực tuyến để xác định được đối tượng khách hàng mục tiêu của chiến lược IM, quản lý việc thực hiện IM theo tiến độ và kế hoạch đề ra, xây dựng nội dung cho hoạt động IM... có phân công nhân sự thực hiện hoạt động IM trong DN (mặc dù nhiều DN chỉ là nhân viên kiêm nhiệm).

- Thực hiện nhiều công cụ IM đối với các thị trường khác nhau. Các lãnh đạo DNDLVN đều hiểu rằng mỗi một đoạn thị trường lại có đặc điểm riêng liên quan đến những hành vi sử dụng internet khác nhau. Như đối tượng khách du lịch Trung Quốc không sử dụng công cụ google, công cụ facebook do đó không thể tiến hành IM thông qua công cụ tìm kiếm google hay qua mạng xã hội facebook được. Các DNDLVN thường sử dụng app ctrip để chạy quảng cáo và các hoạt động xúc tiến


khác. Trong khi đó khách Hàn thì lại hay đặt phòng qua booking.com hay agoda.com... Chính vì vậy, việc thực hiện nhiều công cụ ứng dụng IM với các thị trường khác nhau giúp DN có thể khai thác tối đa các thị trường tiềm ẩn.

3.3.1.2. Nguyên nhân

Để có thể có được những thành công trong ứng dụng IM tại các DNDLVN là do các nguyên nhân sau:

Thứ nhất, sự phát triển kinh tế làm điều kiện cho ứng dụng IM trong kinh doanh tại các DNDLVN: Trước khi có dịch Covid - 19 bùng phát trên thế giới, kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ. Tăng trưởng GDP duy trì được tốc độ cao, đặc biệt là trong các năm 2017 - 2019. Tính chung giai đoạn 2016 - 2020, tăng trưởng GDP khoảng 6,84%/năm. Thu nhập của người dân Việt Nam được cải thiện với bình quân GDP đầu người năm 2019 đạt gần 2.800 USD. Không chỉ ở Việt Nam, thu nhập và quỹ thời gian rảnh rỗi của nhiều quốc gia trên thế giới tăng lên dẫn tới nhu cầu đi du lịch cũng tăng lên cao. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng cứ 1% tăng trưởng GDP sẽ tạo ra tăng trưởng từ 2% - 2,5% trong chi tiêu cho du lịch. Khi nhu cầu đi du lịch tăng cao, nhu cầu tìm kiếm thông tin cho chuyến đi cũng sẽ tăng theo. Cùng với cuộc sống bận rộn, việc ngồi tại một nơi để tìm kiếm thông tin du lịch phục vụ cho chuyến đi của mình ở khắp nơi cũng là xu hướng mà khách du lịch lựa chọn. Bên cạnh đó, sự tăng trưởng kinh tế làm điều kiện cho ứng dụng hoạt động IM. Các yếu tố đánh giá khả năng sẵn sàng của điện tử trong nền kinh tế Việt Nam cũng tăng cao như tỷ lệ máy tính trên đầu người, mức độ kết nối internet, mức độ phát triển của các ngành liên quan đến du lịch điện tử như thanh toán điện tử, các phần mềm hỗ trợ cho DNDLVN...

Thứ hai, chính phủ đã ban hành nhiều chính sách vĩ mô hỗ trợ các DN nói chung và DNDLVN nói riêng trong việc triển khai các hoạt động IM: Hiện nay, pháp luật Việt Nam đang thiết lập hành lang pháp lý cho các giao dịch TMĐT được tiến hành một cách minh bạch, trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, qua đó tạo điều kiện để TMĐT phát triển, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của DN và xây dựng các tập quán thương mại hiện đại cho Việt Nam. Việc đẩy mạnh và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại điện tử kết hợp với việc các chủ thể tham gia thương mại điện tử làm quen và tuân theo những quy tắc quốc tế sẽ thúc đẩy thương mại điện tử và việc tiếp cận thông tin, sản phẩm và mua sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp thông qua hoạt động internet marketing tại Việt Nam ngày càng được hoàn thiện hơn. Ngoài ra, việc luật du lịch năm 2017 quy định chi phí hoạt động xúc


tiến quảng bá trong hoạt động IM của DN được hạch toán vào chi phí của DN cũng là một quy định thuận lợi để giúp các DNDLVN có thể tính đó là các chi phí hợp lý, giảm mức đóng thuế của doanh nghiệp.

Thứ ba, sự phát triển của công nghệ và sự gia tăng số lượng người sử dụng công nghệ: Yếu tố công nghệ là một yếu tố vô cùng quan trọng với những thành công trong ứng dụng IM tại DNDLVN. Các tiến bộ về công nghệ này đang làm thay đổi hoạt động du lịch trên toàn thế giới và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến hoạt động IM tại các DNDLVN.

Theo báo cáo từ Hootsuite, năm 2020 số người sử dụng internet trên toàn thế giới đạt 4,66 tỉ người, tỷ lệ sử dụng internet toàn cầu là 59,5%. Tại Việt Nam, theo số liệu của bộ Thông tin và Truyền thông, số lượng người sử dụng internet ngày càng tăng. Năm 2020 dân số Việt Nam đạt mốc xấp xỉ 97 triệu dân, với 68,17 triệu người sử dụng Internet (chiếm 70% dân số), 94% trong số đó lên mạng hàng ngày, số lượng người dùng mạng xã hội là 65 triệu người (chiếm tỷ lệ 67% dân số). Yếu tố cơ sở hạ tầng cũng ngày càng được cải thiện, tốc độ truy cập Internet vẫn tăng trưởng hàng năm. Cũng theo báo cáo của bộ Thông tin và Truyền thông, tốc độ truy cập internet trung bình ở điện thoại là 21.56 MBPS (tăng 6.1% so với năm 2018) và ở máy tính là 27.18 MBPS (tăng 9.7% so với năm 2018). Một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến việc ứng dụng IM là từ phía các nhà cung cấp dịch vụ internet. Ở Việt Nam, hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp cung cấp dịch vụ internet. Giá dịch vụ internet nói chung so với trên thế giới là tương đối rẻ, chất lượng dịch vụ internet cung cấp cho khách hàng ngày càng tăng. Các doanh nghiệp cung cấp đã đầu tư công nghệ, cải tiến hoạt động kinh doanh như áp dụng công nghệ 4G, 5G, wifi, wimax... nhằm tăng cường chất lượng và mở thêm các dịch vụ cung cấp.

Thứ tư, sự đầu tư cơ bản các yếu tố công nghệ, kỹ thuật của các DNDLVN: Hiện nay, phần lớn các DNDLVN đều trang bị những điều kiện tốt nhất trong khả năng của mình để có thể triển khai thương mại điện tử và sẵn sàng kết nối để tiến hành ứng dụng IM cho doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp đều có hệ thống máy tính, kết nối mạng với đường truyền tốc độ cao, sử dụng nhiều công nghệ hiện đại. Đây là một yếu tố tạo điều kiện tốt cho ứng dụng IM có cơ hội phát triển.

Thứ năm, cơ bản nắm bắt được sự biến động trong xu hướng tìm kiếm thông tin/mua các dịch vụ du lịch của các lãnh đạo của các doanh nghiệp: Hành vi mua sản phẩm du lịch của khách hàng ngày nay đang thay đổi rất nhiều. Cuộc sống hiện đại, bận rộn càng thúc đẩy con người ta có nhu cầu đi du lịch. Nhưng do quỹ thời gian


hạn hẹp, không có nhiều thời gian đi tìm hiểu thông tin về các chương trình du lịch, cộng với việc sự phát triển của internet tạo điều kiện cho khách du lịch có xu hướng tìm kiếm thông tin qua mạng internet phục vụ cho chuyến đi du lịch của mình. Chính vì việc nắm bắt được nhu cầu du lịch ngày càng tăng và xu hướng sử dụng internet trong các hoạt động thường nhật ngày càng phổ biến nên xu hướng phát triển kinh doanh du lịch trực tuyến sẽ ngày càng có cơ hội được nhân rộng, tạo động lực cho các DNDLVN ngày càng phát triển ứng dụng IM trong hoạt động kinh doanh của mình.

Nhưng quyền lực của người mua ngày càng trở nên mạnh hơn, KDL ngày càng có nhiều lựa chọn hơn, giá cả mà họ được mời chào cũng cạnh tranh hơn. Nguyên nhân chủ yếu của việc này là thông qua internet, các DNDLVN có nhiều hiểu biết hơn về khách hàng của mình, giá cả trực tuyến cũng minh bạch hơn, dễ so sánh giữa các nhà cung ứng khác nhau. Đây có lẽ cũng là một thách thức từ phía khách hàng cho các DNDLVN trong thời đại internet. Ngược lại, điều này cũng có thể là lợi thế để DNDLVN có những chiến lược đánh trúng vào tập khách hàng mục tiêu để thu hút họ sử dụng sản phẩm của DN mình.

3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

3.3.2.1. Những hạn chế

- Trở ngại lớn nhất của các DNDLVN đối với việc ứng dụng IM trong các hoạt động kinh doanh là sự ưu tiên dành cho CNTT trong tương quan với các khoản đầu tư khác của doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Kinh phí hạn chế đã ảnh hưởng đến khả năng đầu tư nâng cấp hệ thống máy móc, phần mềm hiện đại, quảng cáo qua các công cụ tìm kiếm và quảng cáo qua các website nổi tiếng như Agoda, Alibaba...hay thuê các đơn vị có uy tín thiết kế và xây dựng website, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến tính hiệu quả và sức cạnh tranh trong hoạt động IM

- Việc thực hiện các bước ở từng hoạt động ứng dụng vẫn còn chưa đầy đủ. Khi tiến hành nghiên cứu thực trạng quy trình ứng dụng IM tại các DNDLVN cho thấy, những DN càng đầu tư bài bản, thực hiện đầy đủ các bước trong quy trình IM thì lợi ích của việc ứng dụng IM lại càng cao. Lúc này, hiệu quả của hoạt động IM lại giúp nâng cao một cách tích cực nhận thức và sự đầu tư của ban lãnh đạo các DN, đầu tư trở lại đối với hoạt động IM. Ngược lại những DN chỉ thực hiện một hoặc một vài bước hoặc không mang tính chất hệ thống trong quy trình ứng dụng IM sẽ không khai thác hết được những ưu điểm của nó. Kết quả này cũng tác động ngược trở lại tới nhận thức của ban lãnh đạo, khiến họ tin tưởng ít đi vào hiệu quả


của IM và không có xu hướng đầu tư phát triển ứng dụng IM trong hoạt động kinh doanh. Điều đó có thể khẳng định rằng, việc đưa ra một quy trình IM và thực hiện theo đó, phối hợp với hoạt động marketing truyền thống chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao cho hoạt động marketing của DN.

- Các DNDLVN thường không có quy chuẩn để thu thập dữ liệu, nghiên cứu thị trường khiến cho dữ liệu lớn không được tận dụng triệt để. Bên cạnh đó, nhiều DN lữ hành đến nay vẫn chưa hiểu hết về dữ liệu lớn và ứng dụng của nó. Điều này một phần là do thông tin được thu thập thường quá phức tạp và khó hiểu, Bên cạnh đó, dữ liệu thu thập phải tập trung vào trải nghiệm của khách du lịch nhưng vẫn phải chú trọng bảo mật thông tin của họ, do đó nên khá khó khăn cho các DNDLVN tận dụng hết ưu điểm bộ dữ liệu lớn trong hoạt động nghiên cứu thị trường trực tuyến của mình.

- Hoạt động marketing mục tiêu trực tuyến còn chưa được quan tâm thực hiện. Các hoạt động IM chưa dựa trên kết quả nghiên cứu thị trường trực tuyến để xác định các phân khúc thị trường trực tuyến và định vị thị trường. Điều này dẫn tới việc các DN lựa chọn công cụ và quy trình IM một cách tự phát, cảm tính, lãng phí nguồn lực và chưa tận dụng hết lợi thế mà internet mang lại cho hoạt động IM.

- Các công cụ IM mà DN tiến hành vẫn chưa đa dạng và phong phú, chủ yếu thông qua web. Trang web của nhiều DNDLVN còn hạn chế trong cách trình bày (nhiều chữ, ảnh độ phân giải không cao, thiết kế sơ sài, đồ họa kém hấp dẫn), chưa có đầy đủ các công cụ tiện ích như bản đồ, đặt tour, phòng trực tuyến, video...Các tính năng điện tử chưa đầy đủ. Nội dung quảng bá trên các mạng xã hội chưa được cập nhật thường xuyên, liên tục, cách cung cấp thông tin chưa thực sự sáng tạo, hấp dẫn để người xem tự nguyện chia sẻ, lan truyền nội dung trên mạng.

- Yếu tố con người trực tuyến được khách hàng đánh giá cao nhất trong ý định mua các dịch vụ du lịch thì nhiều DN chưa thực sự đầu tư. Bên cạnh đó, nhân lực còn hạn chế về ngoại ngữ, đặc biệt là khả năng ứng dụng CNTT trong IM. Nhiều DN không có bộ phận chuyên môn sâu về biên tập nội dung, tiến hành các công cụ và quy trình IM.

3.3.3.2. Nguyên nhân

a) Nguyên nhân chủ quan

Một là, các DNDLVN chưa xây dựng được quy trình IM một cách bài bản cũng dẫn đến sự hiểu thiếu, hiểu chưa đầy đủ về các hoạt động IM. Việc ứng dụng IM trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi DNDLVN phải làm quen với những cách thức tiến hành marketing trên các công cụ mới và hoàn toàn khác so với marketing


truyền thống. Chính vì thiếu quy trình thực hiện bài bản dẫn đến cách hiểu chưa đầy đủ về hoạt động IM. Do vậy, các DNDLVN cần phải xây dựng quy trình IM để làm kim chỉ nam cho hoạt động IM của DN.

Hai là, do nhận thức của lãnh đạo DN và nhân viên về IM ở một số DN du lịch còn chưa đầy đủ. Từ kết quả khảo sát cho thấy, ở một số DN, nhận thức của lãnh đạo DN và nhân viên về IM chưa đầy đủ như việc đơn giản hóa nội dung của hoạt động này, chưa có sự chú trọng đầu tư về đào tạo công nghệ thông tin song song với việc đào tạo ngoại ngữ và chuyên môn. Mặc khác, việc nắm bắt các khuynh hướng IM trong du lịch chưa kịp thời. Lãnh đạo càng nhận thức đúng và ủng hộ tích cực thì quá trình ứng dụng IM tại DN càng thuận lợi. Về cơ bản, chỉ ít các nhà lãnh đạo nhận thức đúng về các triết lý cơ bản của ứng dụng IM liên quan đến quy trình IM và các công cụ IM. Đa số các lãnh đạo của DNDLVN còn lại đều đưa ra một tiến trình đơn giản theo cách hiểu của họ về IM. Có nhiều người chỉ hiểu IM là thiết kế website để thu hút khách hàng, bán hàng trên website, hay tìm một website nào đó có số lượng khách hàng truy cập đông, mà những khách hàng đó có đặc điểm giống với những khách hàng mua sản phẩm của DN rồi đăng quảng cáo lên đó... Chính điều này đã khiến hoạt động ứng dụng IM tại các DNDLVN gặp nhiều khó khăn.

Ba là, do các DNDLVN thường là các DN vừa và nhỏ, ngân sách chi trả cho hoạt động marketing nói chung và IM nói riêng còn hạn chế. Ngoài các DNDLVN có quy mô lớn, đầu tư bài bản thì một số lượng lớn các DNDLVN có quy mô vừa và nhỏ gặp khá nhiều khó khăn trong hoạt động ứng dụng IM do ngân sách dành cho ứng dụng IM còn hạn chế, trong khi IM thành công lại là một điều kiện cần thiết tạo nên sự thành công cho các DN. Tuy nhiên, ngân sách hạn hẹp không có nghĩa là không thể ứng dụng IM bài bản. Các DNDLVN nếu lựa chọn được hình thức marketing phù hợp thì hoạt động ứng dụng IM vẫn có thể đem lại hiệu quả cho DN.

Bốn là, do nguồn nhân lực thực hiện IM thiếu và yếu, đặc biệt với những DNDL vừa và nhỏ. Với các DN này, nhân lực thực hiện IM thường kiêm nhiệm. Có những DN có bộ phận marketing riêng nhưng lại phân biệt nhân lực sale và nhân lực marketing, trong đó có sự coi trọng hơn nhân lực sale. Để có thể thực hiện tốt ứng dụng IM, các DNDLVN cần có đội ngũ nhân lực vừa am hiểu về marketing, đồng thời phải sử dụng thành thạo công nghệ thương mại điện tử. Thực tế tại các DNDLVN hiện nay, trình độ đội ngũ marketing qua mạng internet đang có sự mất cân đối: có cán bộ, nhân viên biết về kinh doanh, về marketing nhưng lại không có sự hiểu biết về máy vi tính, không hiểu nhiều về kinh doanh thương mại điện tử, về IM;


ngược lại có doanh nghiệp tuyển dụng những cán bộ tin học chỉ biết về máy tính, phần cứng, phần mềm nhưng lại thiếu kiến thức và kỹ năng về kinh doanh, về marketing, về du lịch. Có rất nhiều các DNDLVN mở ra các trang web, nhưng vì thiếu nhân lực phụ trách trang web, trang web lập nên chỉ để đó, không mang lại hiệu quả trong kinh doanh. Chính vì vậy, các doanh nghiệp phải xây dựng được chiến lược phát triển thương mại điện tử một cách đồng bộ nhất, đặc biệt là chiến lược về nhân sự IM cho sự phát triển lâu dài của các DNDLVN.

b) Nguyên nhân khách quan

Một là, cơ chế chính sách pháp luật chưa đồng bộ: Mặc dù các cơ quan chức năng đã có nhiều cố gắng để xây dựng một hành lang pháp lý hoàn chỉnh về quản lý và phát triển thông tin điện tử, song trên thực tế vẫn thiếu và không đồng bộ. Trong khi đó internet và các ứng dụng internet phát triển rất nhanh chóng và phức tạp. Vấn đề bảo vệ các thông tin cá nhân trên mạng còn yếu. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh về hoạt động IM qua mạng và TMĐT trong du lịch khó được xác định và xử lý bằng các chế tài truyền thống, ngoài ra còn liên quan đến các vấn đề pháp lý về nhãn hiệu, cạnh tranh...

Hai là, thiếu một cơ quan chuyên trách làm đầu tàu kết nối các DN và các bộ ban ngành liên quan trong việc ứng dụng IM. Hiện nay, Tổng cục Du lịch đang phải đóng hai vai trò cùng lúc, vừa là cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, vừa đồng thời là cơ quan xúc tiến du lịch quốc gia. Và với hai vai trò này thì rất khó để cùng lúc thực hiện hoàn thành tốt cả hai nhiệm vụ, việc thực hiện các nhiệm vụ như vậy sẽ bị chồng chéo, và bị hạn chế về con người, đồng thời vai trò đầu tàu kết nối chưa thực sự rõ nét. Chính vì vậy, cần phải có cơ quan chuyên trách thay mặt cơ quan quản lý nhà nước để quản lý các quỹ của Nhà nước về hoạt động marketing, hoạt động xúc tiến của Việt Nam và hỗ trợ các DN thực hiện các chiến lược IM nói riêng và các hoạt động xúc tiến quốc gia nói chung.


TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Sự phát triển như vũ bão của công nghệ số và internet trong bối cảnh hiện nay đã chuyển đổi gần như toàn bộ các hoạt động lên môi trường mạng gây ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc đến ngành du lịch. Việc ứng dụng internet vào du lịch nói chung và hoạt động marketing nói riêng đã có những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên thực tế cho thấy sự phát triển này vẫn chưa mang tính đồng bộ, mức độ đầu tư chưa tương xứng với quy mô.

Xem tất cả 171 trang.

Ngày đăng: 30/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí