DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1: Hình thái bên ngoài lươn đồng (monopterus albus, zuiew, 1793) 3
Hình 3.1: Hệ thống bể thí nghiệm 1 143
Hình 3.2: Hệ thống bể thí nghiệm của thí nghiệm 2 và 3 15
Hình 4.1: Giai đoạn 1 (x10) 27
Hình 4.2: Giai đoạn 2 (x10) 27
Hình 4.3: Giai đoạn 3 (x30) 27
Hình 4.4: Giai đoạn 4 (x20) 27
Hình 4.5: Tỷ lệ các giai đoạn thành thục của lươn đồng 28
Hình 4.6: Hàm lượng vitellines trong huyết tương lươn đồng 29
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu tuổi thành thục và thử nghiệm sinh sản lươn đồng (monopterus albus zuiew, 1793) - 1
- Những Nghiên Cứu Về Sản Xuất Giống Lươn Đồng
- Thử Nghiệm Sinh Sản Lươn Đồng Với Nguồn Bố Mẹ Không Được Nuôi Vỗ Thành Thục (Thí Nghiệm 2)
- Tăng Trưởng Về Chiều Dài Và Khối Lượng Của Lươn Đồng Bảng 4.2. Tăng Trưởng Về Khối Lượng Của Lươn Đồng
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Hình 4.7: Hàm lượng vitellines ở các giai đoạn thành thục khác nhau 30
Hình 4.8: Tỷ lệ sinh sản của lươn đồng ở các nghiệm thức sử dụng kích dục tố khác nhau ở thí nghiệm 2 và thí nghiệm 3 32
Hình 4.9: Tổ bọt của lươn 33
Hình 4.10: Trứng lươn 33
Hình 4.11: Trứng lươn sắp nở 343
Hình 4.12: Lươn con mới nở 343
Hình 4.13: Lươn giống 1 tuần tuổi 35
Hình 4.14: Lươn giống 1 tháng tuổi 35
Hình 4.15: Tỷ lệ sống của lươn bột của các nghiệm thức khác nhau
ở thí nghiệm 2 và thí nghiệm 3 365
Hình 4.16: Tỷ suất lợi nhuận của các nghiệm thức ở thí nghiệm 3 39
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
C Buổi chiều
DO Oxy hòa tan trong nước
GĐ Giai đoạn
NT Nghiệm thức
S Buổi sáng
T Tuần
TN Thí nghiệm
TSD Tuyến sinh dục
ĐC Đối chứng
1.1 Giới thiệu
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long hiện nay nghề nuôi thuỷ sản nước ngọt đang phát triển rất nhanh, diện tích nuôi trồng ngày càng được mở rộng với quy mô ngày càng lớn. Trong các giống loài nuôi thì cá tra là một đối tượng nuôi chủ lực của vùng. Sản lượng cá tra thu hoạch và xuất khẩu luôn đứng đầu so với các loài khác đem lại thu nhập cao cho bà con và mang về nguồn ngoại tệ lớn cho nền kinh tế quốc dân trong nhiều năm. Tuy nhiên, trong những năm gần đây hiệu quả kinh tế của đối tượng này không đảm bảo do sự kiện áp dụng thuế chống phá giá của Mỹ cũng như khủng hoảng thừa nguyên liệu vào năm 2008. Điều này dẫn đến sự chuyển hướng sang nuôi các loài khác, trong đó lươn đồng (Monopterus albus) là một đối tượng kinh tế rất tiềm năng.
Lươn đồng là loài nuôi khá phổ biến trên thế giới, trong đó Đông Nam Á là một trong những vùng nuôi lươn quan trọng (Lee và Degani, 2000). Lươn đồng (Monopterus albus) là loài có giá trị dinh dưỡng cao, thịt thơm ngon, rất được ưa chuộng trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra thịt lươn còn chứa nhiều DHA, EPA, vitamin B1, B2 có tác dụng bồi bổ sức khỏe, tăng trí thông minh, hạn chế các khối u, chống viêm (Nguyễn Chung, 2008). Theo Razak và ctv (2001), hàm lượng arachidonic acid là 10,17% và DHA chiếm 7,16% lipid cơ thể.
Trung Quốc, Singapore, Hồng Công, Nhật Bản, có nhu cầu tiêu thụ lươn rất lớn. Mặt dù họ đã chú trọng phát triển đối tượng này nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu của thị trường nên phải nhập khẩu từ nhiều nước khác, chủ yếu là các nước Đông Nam Á. Hiện nay, Việt Nam đã xuất khẩu lươn sống sang Trung Quốc, lươn đông lạnh và tẩm dầu hun khói sang các nước Singapore, Hồng Công, Nhật Bản, Úc, Mỹ, EU…, tuy nhiên số lượng rất hạn chế và giảm dần do nguồn hoan dã bị cạn kiệt (Nguyễn Chung, 2008).
Ở Việt Nam lươn đồng (Monopterus albus) phân bố rất rộng trong tự nhiên do có đặc tính sinh lý, sinh thái phù hợp với điều kiện khí hậu của vùng. Từ lâu, đối tượng này được người dân nuôi phổ biến với nhiều mô hình khác nhau. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, lươn đồng (Monopterus albus) đang được nuôi bước đầu đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao (Đỗ Thị Thanh Hương và ctv, 2008). Lươn là đối tượng rất kinh tế có tiềm năng phát triển nghề nuôi theo quy mô công nghiệp để cải thiện đời giống người dân cũng như quy hoạch phát triển đại trà. Tuy nhiên, khả năng cung cấp giống đang là rào cản
chính làm trì hoãn sự phát triển của nghề nuôi, do đó nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo là một nhu cầu lớn, cấp thiết. Hiện nay, trên thế giới và Việt Nam những nghiên cứu về lươn đồng còn rất ít. Nghiên cứu về sản xuất giống nhân tạo cũng được thực hiện và cho kết quả khả quan như: nghiên cứu đặc điểm sinh lý sinh sản và thử nghiệm sản xuất giống lươn đồng (Nguyễn Thị Hồng Thắm, 2007), thử nghiệm nuôi vỗ thành thục và sinh sản lươn đồng (Nguyễn Thị Lệ Hoa, 2008). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu vẫn còn những hạn chế nhất định và chưa thể áp dụng rộng rãi trong thực tế sản xuất.
Nhằm cung cấp những kiến thức cơ sở cho việc nghiên cứu sản xuất giống lươn đồng để đáp ứng nhu cầu con giống hiện nay và tìm hiểu một số thông tin về đặc điểm sinh lý sinh sản cần thiết về lươn đồng (Monopterus albus) đề tài: “Nghiên cứu tuổi thành thục và thử nghiệm sinh sản lươn đồng (Monopterus albus Zuiew, 1793)” được thực hiện.
1.2 Mục tiêu của đề tài
Cung cấp một số dẫn liệu về đặc điểm sinh học sinh sản và hiệu quả sinh sản của lươn đồng trong điều kiện có và không nuôi vỗ, làm cơ sở cho những giải pháp nghiên cứu và thực hành sản xuất giống thương phẩm.
1.3 Nội dung của đề tài
- Thí nghiệm xác định tuổi thành thục của lươn đồng
- Thử nghiệm sản xuất giống với nguồn lươn không được nuôi vỗ.
- Thử nghiệm sản xuất giống với nguồn lươn được nuôi vỗ.
- Theo dòi chu kỳ sinh sản của lươn đồng.
1.4 Thời gian thực hiện đề tài:
Từ tháng 08/2009 đến tháng 10/2010
CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học
2.1.1 Hệ thống phân loại
Theo Fishbase.org (2005) lươn đồng được phân loại như sau: Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Synbranchiformes Họ: Synbranchidae
Họ phụ: Neoterygii
Loài: Monopterus albus (Zwiew, 1973)
Hình 2.1: Hình thái bên ngoài lươn đồng (Monopterus albus, Zuiew, 1793)
2.1.2 Phân bố
Lươn đồng có tên tiếng Anh là Rice Eel hay Asian Swanp Eel, phân bố rất rộng từ Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên đến Châu Phi, Châu Úc, Trung và Bắc Mỹ, xuất hiện nhiều ở Hawaii, Florida và Georgi. Ở các nước Đông Nam Á, lươn có rất nhiều ở Thái Lan, Myanmar, Việt Nam, Campuchia (Nguyễn Chung, 2008). Chúng không phân bố ở Philippines và New Guinea nhưng được tìm thấy ở Sulewesi (Celebes) (Rosen và Greenwood, 1976). Lươn đồng đã tìm thấy ở những con sông từ lớn đến trung bình, ruộng ngập lũ, nơi nước tù động và cả những kênh nước chảy chậm (Taki, 1978). Lươn phân bố rộng trong nhiều loại hình thủy vực như ao đầm, kênh gạch, ruộng lúa (Shil, 1940; Davidson, 1975), có khả năng chịu đựng được môi trường khô hạn bằng cách chui rút vào đất ẩm và sống ở đây cho đến hết mùa khô (Liem, 1987). Lươn sống dưới đáy, chui rút dưới bùn và đào hang trong đất nhưng độ
sâu không quá 3m (Nguyễn Chung, 2008), có thể tồn tại vài ngày trong môi trường không có nước (Wu và Kong, 1940).
Theo Ngô Trọng Lư (2002), lươn thích sống ở nơi đất thịt pha sét, đất bùn, nơi có nhiều ngò ngách, có thể sống 2-3 tháng ở lớp đất dưới 1m ở ruộng khô nẻ nhờ có cơ quan hô hấp phụ. Các tơ mang của lươn tiêu giảm, khi thở lươn lấy oxy vào cơ thể phần lớn thông qua màng nhày của cung mang, bên cạnh đó lươn có thể lấy dưỡng khí qua toàn bộ bề mặt cơ thể (Liem, 1981). Lươn đồng sống chủ yếu ở vùng nước ngọt nhưng cũng có thể thấy ở vùng nước lợ và mặn (Nichols, 1943).
Lươn là loài động vật biến nhiệt, nhiệt độ cơ thể thay đổi theo nhiệt độ môi trường. Sống bình thường trong khoảng nhiệt độ từ 15-320C, thích hợp nhất ở khoảng 24-280C. Khi nhiệt độ dưới 150C lươn chui rút xuống lớp bùn đáy hoặc đáy hang và ngưng hoạt động, sống dựa vào nguồn năng lượng dự trữ trong cơ thể, khi nhiệt độ trên 320C lươn giảm ăn và có thể tiết nhớt và chết nóng (Nguyễn Chung, 2008). Lươn cũng có thể sống trong vùng có nhiệt độ băng giá (Nico, 1999).
2.1.3 Hình thái cấu tạo
Lươn đồng có thân dài, đuôi thon, không có vẫy, mòm tròn, hàm và vòm miệng có răng dạng lông nhung, mắt nhỏ được bao phủ bởi lớp da (Aguirre và Poss, 1999, trích bởi Anon, 2005). Cơ thể có màu nâu xám ở bên trên, mặt bụng có màu trắng hoặc nâu nhạt với những chấm nhỏ sậm màu ở bên hông và đôi khi có ở mặt bụng. (Inger và Kong, 1962). Theo Trương Thủ Khoa và Trần thị Thu Hương (1993) lươn có thân dài, phần trước tiết diện tròn, phần sau dẹp bên và mỏng. Đường bên phát triển và rất rỏ (Jayaram, 1981). Đầu hơi dẹp bên, mòm nhỏ, ngắn, không có râu. Mắt nhỏ, hình bầu dục, được da che phủ, nằm gần chót mòm. Phần trán giữa hai mắt hẹp và cong lồi. Khe mang lệch xuống mặt bụng, hai khe mang hai bên dính nhau thành một, có dạng hình chữ V, nhưng ở phía trong dính với eo mang.
Lươn đồng ít khi dài hơn 70 cm, chủ yếu trong khoảng 25-40 cm (Smith, 1945), một số trường hợp có thể dài hơn 1 m (Rainboth, 1996). Theo Kottelet (1999), lươn đồng không có vi ngực và vi bụng, vi hậu môn vi đuôi và vi lưng dính liền nhau, lỗ mang kết hợp thành khe bên dưới đầu, cơ thể có màu đỏ nâu với một ít vết ngang lưng, miệng rộng mắt nhỏ. Xoang hầu có cấu tạo đặc biệt gọi là bọng hầu cho phép lươn lấy oxy qua cơ quan này bên cạnh mang và da (Nguyễn Chung, 2008).
2.2 Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng
2.2.1 Đặc điểm dinh dưỡng
Lươn là loài ăn thịt (Bricking, 2002), chủ yếu vào ban đêm (Yamamoto, 2000). Khảo sát hệ tiêu hóa của lươn cho thấy thức ăn phần lớn là tép, cá và cua, chỉ số LRG là 0,65 (Lý Văn Khánh 2008). Lượng thức ăn trong ngày không quá 8% trọng lượng cơ thể. Khi còn nhỏ ăn sinh vật phù du, côn trùng bọ gậy, ấu trùng chuồn chuồn, đôi khi ăn thực vật như rể lúa, tảo sợi. Lươn đồng có tính lựa chọn thức ăn rất cao (Minh Dũng, 2005), khi lớn trên 15 cm, lươn ăn chủ yếu là thức ăn động vật như cá, tôm con, côn trùng, ốc, hến, nòng nọc, ếch nhái, giun ốc và những động vật trên cạn gần mép nước, giun, dế…khi thiếu thức ăn có thể ăn rau bèo, mảnh vụn thực vật ngay cả ăn nhau. Lươn tìm thức ăn chủ yếu dựa vào khứu giác, vào mùa sinh sản lươn hầu như không ăn (Nguyễn Chung, 2008). Theo Ngô Trọng Lư (2003), lươn có khả năng chịu đói trong khoảng thời gian dài.
Lươn ăn tốt giun đất tươi, FCR trong khoảng 4-6, cho ăn bằng thịt trai tươi với mức 7% trọng lượng thân thì FCR nằm trong khoảng 7,5-10 (Ngô Trọng Lư, 2003).
2.2.2 Đặc điểm sinh trưởng
Trong hai năm đầu đời lươn tăng trưởng chiều dài nhanh hơn chiều ngang (Việt Chương và Nguyễn Việt Thái, 2007). Tốc độ sinh trưởng của lươn tùy thuộc vào điều kiện môi trường, ở vùng nhiệt đới không phải trú đông lươn lớn rất nhanh. Lươn con 3-4 tháng tuổi lớn nhanh về chiều dài có thể đạt 20-27 cm nặng 18-60 g, 6 tháng tuổi có chiều dài 36-48 cm nặng 60-100 g và một năm tuổi có chiều dài trong khoảng 40-60 cm nặng 150-250 g (Nguyễn Chung, 2008).
Lươn con trong năm thứ nhất tăng nhanh về chiều dài, sau đó chủ yếu gia tăng trọng lượng (Ngô Trọng Lư, 2003). Ở những nơi có mùa đông, lươn tăng trưởng chặm do ngừng ăn trong thời gian trú đông. Lươn 1 tuổi chỉ đạt chiều dài khoảng 27 cm nặng 18-60 g, lươn 2 năm tuổi đạt chiều dài 36-48 cm nặng 40-100 g, đạt cỡ thương phẩm sau 3 năm tuổi (Nguyễn Chung, 2008).
2.3 Đặc điểm sinh sản
2.3.1 Mùa vụ và tập tính sinh sản
Ở những nơi có mùa đông, sau thời gian trú đông là mùa sinh sản của lươn. Khi thời tiết ấm lên, môi trường tự nhiên dồi dào thức ăn lươn tích cực tìm thức ăn để tích lũy năng lượng, thành thục sinh dục và bước vào mùa sinh
sản vào tháng 3-4. Ở những vùng khí hậu nóng quanh năm lươn không trú đông, thời vụ sinh sản bắt đầu khi mùa mưa đến thời tiết mát mẻ, mùa đẻ chính vào tháng 5-6 và tái thành thục vào tháng 8-9. Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, lươn đồng đẻ trong suốt mùa mưa (Nguyễn Chung, 2008). Theo Lý Văn Khánh và ctv (2008), mùa vụ sinh sản của lươn đồng tập trung vào tháng 3-9 hàng năm, hệ số thành thục cao nhất vào tháng 3 là 6,74%.
Lươn làm tổ đẻ nơi đất sét pha thịt thường ven bờ ruộng, kênh mương, bờ ao, bưng trũng. Sau khi bắt cặp, lươn đực sẽ đào hang thường có hình chữ “U”, cao hơn mặt nước 5-10 cm và một hang thường có 3 ngách: ngách chính nằm sâu dưới bùn, lươn sống và sinh sản tại đây; ngách phụ thứ nhất từ trên bờ xuống tạo thành chữ “U”; ngách phụ còn lại để thông không khí cho lươn thở. Lươn đực phun đầy bọt tạo ra những tổ dạng bong bóng trong vùng nước cạn gần khu vực hang. Tổ không dính vào thực vật thủy sinh mà trôi thoải mái ở bề mặt (Nguyễn Chung, 2008). Lươn cái đến đẻ lên đám bọt đó, lươn đực và lươn cái cùng chăm sóc, bảo vệ trứng (Sadovy và Shapiro, 1987).
2.3.2 Tỷ lệ giới tính và sức sinh sản
Lươn đồng là loài lưỡng tính, tính cái xuất hiện trước, đời sống sinh sản của nó thường trải qua 3 phase: cái, lưỡng tính, đực (Nguyễn Tường Anh, 1999). Lươn có sự chuyển đổi tự nhiên từ cái sang đực (Chan và Phillips, 1967). Tuyến sinh dục của lươn không đối xứng, bên trái phát triển còn bên phải thoái hóa (Ngô Trọng Lư, 2002). Lươn có chiều dài nhỏ hơn 30 cm đa số là lươn cái, tỉ lệ giới tính đực chiếm đa số với chiều dài lớn hơn 50 cm, trong khoảng 30-50 cm có cả 3 pha đực, cái và lưỡng tính (Phan Thị Thanh Vân, 2006). Theo Đức Hiệp (1999), lươn có chiều dài từ 35-50 cm tính cái chiếm 60%, 40% là tính đực, với chiều dài 47-59 cm tính cái chiếm 30%, với chiều dài 66-75 cm hoàn toàn là lươn đực. Tuyến sinh dục của lươn ở pha lưỡng tính có cả tinh và trứng ở các giai đoạn I, II, III, rất ít trường hợp có trứng ở giai đoạn IV và V (Phan Thị Thanh Vân, 2006). Ở nhóm chiều dài từ 30-40 cm có hệ số thành thục cao nhất đạt 9,12% (Lý Văn Khánh và ctv, 2008).
Ở cá chình Nhật Bản (Anguilla japonica) tỷ lệ đực cái là 4:6 trong điều kiện tự nhiên, trong ao nuôi tỷ lệ này 8 hay 9:1. Sự biến động về tỷ lệ giới tính cũng diễn ra trên một số loài cá khác như: cá chẻm (Lates calcarifer Bloch), giai đoạn nhỏ đực chiếm đa số, giai đoạn lớn cái chiếm đa số (Kungvankij và ctv, 1986); cá chạch sông (Macrognathus siamensis) giai đoạn nhỏ cái chiếm đa số, giai đoạn lớn đực chiếm đa số (Nguyễn Quốc Đạt, 2007).
Sức sinh sản của lươn tương đối thấp, buồng trứng kéo dài theo chiều cơ thể, lươn có chiều dài 20 cm có khoảng 200-400 trứng, chiều dài thân đạt