Nhận thức của toàn xã hội về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được nâng lên. Nhà nước tăng cường đầu tư cho các chương trình an sinh xã hội. Theo đánh giá của Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đã hoàn thành hầu hết và cơ bản các mục tiêu Thiên niên kỷ. Đặc biệt là đã thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chính sách đối với người có công được quan tâm thực hiện. Đã thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách đối với những đối tượng yếu thế trong xã hội, có hoàn cảnh khó khăn.
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tích cực tham gia xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN, tham gia và ký kết 9 hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương khác; thiết lập quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 220 quốc gia, vùng lãnh thổ và là thành viên của 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Nền kinh tế từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường.
Việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Các cơ chế, chính sách đã chú trọng kết hợp giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người dân tham gia và nhận được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế. Phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Nhà nước từng bước được đổi mới phù hợp hơn với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Thực tiễn phát triển của Việt Nam đã không những chứng minh mô hình kinh tế hoàn toàn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, mà còn là tiền đề quan trọng để Đảng tổng kết, không ngừng hoàn thiện trong thời gian tới.
Nguyên nhân của thành tựu: Do đường lối đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Đường lối đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng đã bước đầu làm rõ tính định hướng XHCN để định hình nền kinh tế. Đảng đã xác định đúng vai trò của KTTT đối với sự nghiệp xây dựng CNXH. KTTT là thành tựu phát triển chung của nhân loại, chứ không phải của riêng CNTB. Do đó, KTTT còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH. KTTT vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu, vừa có thể
liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho chúng. Vì vậy, có thể và cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH ở nước ta.
4.1.2. Hạn chế, nguyên nhân
Thư nhất, nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN trên một số vấn đề chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa theo kịp thực tiễn phát triển trong nước
Có thể bạn quan tâm!
- Tạo Quyền Cho Các Chủ Thể Của Kinh Tế Thị Trường
- Đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2016 - 16
- Đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2016 - 17
- Đảm Bảo Tính Thống Nhất Giữa Các Quy Luật Của Kinh Tế Thị Trường Với Tính “Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”
- Đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2016 - 20
- Nguyễn Văn Sáu (2012), Đảng Cộng Sản Việt Nam Lãnh Đạo Xây Dựng Nền Kinh Tế Độc Lập Tự Chủ Từ Năm 1996 Đến Năm 2006, Luận Án Tiến Sĩ, Bản Lưu
Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.
Về các DNNN, nền KTTT định hướng XHCN của Việt Nam lấy KTNN làm vai trò chủ đạo, trong đó DNNN là nòng cốt. Nhưng trên thực tiễn, DNNN hoạt động kém hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước. Đa phần các DNNN hiệu quả kinh doanh thấp, không tương xứng với các nguồn lực được giao nắm giữ, tỷ lệ làm ăn thua lỗ cao, là nơi xảy ra nhiều thất thoát, tham nhũng phổ biến và nặng nề nhất, năng lực cạnh tranh thấp…gây nhức nhối trong dư luận, làm giảm và thậm chí có biểu hiện đi ngược lại vai trò và ý nghĩa giữ vững định hướng XHCN.
Bên cạnh việc đầu tư vào ngành chính của mình, nhiều DNNN còn đầu tư ra ngoài ngành, lĩnh vực có thế mạnh. Hầu hết các khoản đầu tư này có hiệu quả chưa cao, trong khi đó năng lực quản lý tài chính còn nhiều hạn chế, làm phân tán nguồn lực, ảnh hưởng chung đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Nhiều DNNN chưa chú trọng đầu tư cho khoa học công nghệ, chiều sâu sản xuất, ứng dụng công nghệ cao, nên khó cạnh tranh được với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. DNNN chưa thực hiện chế độ quản trị DN hiện đại. Do đó, sự quản lý của chủ sở hữu (Nhà nước) đối với các DN này chưa rõ ràng, còn nhiều kẽ hở để bị lợi dụng, làm thất thoát tài sản Nhà nước.
Việc đổi mới hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm so với lĩnh vực kinh tế và yêu cầu thực tiễn. Công tác quy hoạch mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu còn theo đơn vị hành chính, chưa chú trọng quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, đặc điểm vùng miền và nhu cầu thực tế.
Hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập còn cồng kềnh, dàn trải, phân tán, manh mún, quá nhiều đầu mối, quy mô nhỏ, chồng chéo nhiệm vụ, chưa tinh gọn và chưa phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao, chưa tách bạch rõ giữa chức năng quản lý nhà nước với chức năng cung ứng dịch vụ của đơn vị sự nghiệp công lập. Chưa xác định rõ những dịch
vụ sử dụng ngân sách Nhà nước và những dịch vụ không sử dụng ngân sách nhà nước. Các bộ quản lý ngành, lĩnh vực còn trực tiếp quản lý quá nhiều đơn vị sự nghiệp công lập.
Trong khi đó, ở các nước có nền KTTT phát triển quy mô của các DNNN thường chiếm tỷ trọng từ 5-10% GDP, nếu tính cả những dịch vụ công cộng do bộ máy hành chính, quân sự và tổ chức ăn lương nhà nước ( y tế, giáo dục, văn hóa,...) tạo nên – các dịch vụ này cũng cấu thành GDP quốc gia, thì tỷ lệ này có thể lên đến 20-25% GDP.
Tóm lại, khu vực KTNN còn tồn tại nhiều hạn chế, nhưng suốt trong một thời gian dài, địa vị, vai trò của nó trong cơ cấu thành phần kinh tế của Việt Nam vẫn không hề thay đổi, vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Điều này thể hiện, tư duy của Đảng chưa theo kịp diễn biến của thực tiễn đất nước. Hơn nữa, điều này cũng không phù hợp với thông lệ quốc tế, khi trong nền KTTT hiện đại, tỷ lệ của DNNN trong nền kinh tế rất thấp, chủ yếu đảm nhận cung cấp các dịch vụ công ích mang tính phi lợi nhuận.
Khu vực KTTN có vai trò quan trọng nhưng chưa thực sự được đối xử công bằng, tạo điều kiện để phát triển. KTTN phần lớn có quy mô nhỏ và vừa, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực gia công, chế biến, trình độ công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động, năng lực quản trị yếu kém. Nhưng chúng lại đóng vai trò rất lớn trong giải quyết việc làm, tạo nên tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghê, thích nghi nhanh chóng trong nền kinh tế luôn biến đổi.
Tuy nhiên, môi trường kinh doanh trên thực tế chưa đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kinh tế khu vực tư nhân còn chịu phân biệt đối xử khi đứng cạnh doanh nghiệp nhà nước; trong lý luận của Đảng tuy thừa nhận kinh tế tư nhân là động lực phát triển nền kinh tế, nhưng kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, điều này dẫn đến hệ quả hệ thống cơ chế chính sách tạp lập môi trường kinh doanh được hoạch định chưa đồng bộ, triển khai thiếu nhất quán. Để phần nào tiếp tục khơi dậy tiềm năng của kinh tế tư nhân, giúp thành phần kinh tế này đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế quốc dân, Đảng tiếp tục bổ sung nhận thức về vai trò của khu vực kinh tế này.
Chưa thực sự có bước đột phá về cơ chế huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển, chậm theo cơ chế thị trường. Các nguồn lực: tài nguyên, khoáng sản, đất đai và cả nguồn vốn vẫn bị phân bổ lệch không theo nguyên tắc thị trường mà chủ yếu thuộc về các DNNN. Trong nền KTTT, điều này diễn ra khác: ai đứng ra cam kết sử dụng hiệu quả những nguồn tài nguyên này sẽ được tiếp cận và sử dụng nguồn lực này. Nhà nước đóng vai trò quản lý các nguồn lực, còn phân bổ theo cơ chế thị trường chứ không phải ý định của Nhà nước.
Hiện nay, nhiều lĩnh vực, giá của yếu tố sản xuất chưa phản ánh đúng quan hệ cung – cầu; giá điện, nước, dịch vụ y tế… vẫn chưa được tính đúng, tính đủ. Nhà nước vẫn phải lấy ngân sách bù lỗ.
Thứ hai, tư duy của Đảng trong một số lĩnh vực chậm thay đổi, không có giải
pháp mang tính đột phá
Trong một số nội dung của xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN, nhận thức lý luận của Đảng từ năm 2001 đến năm 2016, chưa có thay đổi đáng kể, nhiều hạn chế được chỉ ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4- 2001), nhưng đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1-2016) vẫn còn nguyên.
Vấn đề hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh, nhất là độc quyền của DNNN. Đây là vấn đề khá lớn, được đề cập một cách xuyên suốt từ năm 2001 – 2016. Điều này nói lên lĩnh vực này không có sự chuyển biến đột phá, cho nên giá cả hàng hóa dịch vụ công vẫn chưa thể theo cơ chế thị trường, trong khi chủ trương của Đảng còn đang lúng túng. Mặc dù, tiến trình cổ phần hóa các DNNN đã được đề ra nhưng Nhà nước vẫn muốn giữ các DNNN độc quyền. Những DN này có thể giữ vai trò điều tiết nền kinh tế trong những trường hợp Nhà nước muốn can thiệp vào thị trường, nhưng cũng khiến cho thị trường cạnh tranh rơi vào tình trạng không công bằng cho các DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Do vẫn tồn tại độc quyền của DNNN nên các quy luật của KTTT sẽ không được thực hiện đầy đủ, khiến thị trường méo mó, phát triển không lành mạnh, không huy động được tất cả các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Vấn đề cổ phần hóa các DNNN cũng được đề ra từ năm 2001 đến năm 2016, các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đều đề cập đến nhiệm vụ cần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các DNNN, rút phần vốn Nhà nước khỏi những lĩnh vực Nhà
nước không cần nắm giữ vốn. Nhưng dường như tiến độ thực hiện rất chậm. Vì vậy, môi trường kinh doanh theo hướng minh bạch, cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế được hình thành khá chậm.
Bên cạnh việc cổ phần hóa các DNNN diễn ra chậm, còn có hiện tượng lợi dụng việc cổ phần hóa DNNN để tư lợi cá nhân, làm thất thoát tài sản Nhà nước trong quá trình cổ phần hóa. Các DNNN được định giá thấp hơn rất nhiều so với giá trị trường, dẫn đến khi bán các tài sản này, Nhà nước thiệt hại rất lớn. Lỗ hổng chủ yếu là các các giá trị về thương hiệu DN, đất đai, thường không được tính, hoặc được tính với giá trị rất thấp.
Về vai trò của Nhà nước trong nền KTTT cũng được Đảng liên tục đưa ra quan điểm theo hướng đổi phân biệt chức năng kinh tế với chức năng quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn chưa thực sự tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Đó là môi trường công bằng, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Thật khó có cạnh tranh bình đẳng khi các DNNN vẫn được hưởng nhiều lợi thế so với KTTN. Hơn nữa, cách thức can thiệp của Nhà nước vào thị trường chưa dựa nhiều vào các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, mà lại dựa nhiều vào các DNNN. Do đó, đây cũng là nguyên nhân các DNNN được hưởng nhiều ưu đãi.
Điều này thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng, trình độ quản lý của các cơ quan nhà nước và sự thể chế hóa các quyền của tổ chức chính trị - xã hội vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam vẫn tồn tại nhiều hạn chế, mặc dù đã có thời gian xây dựng, phát triển khá dài.
Thứ ba, nhận thức lý luận của Đảng còn chậm so với yêu cầu thực tiễn
Trước những biến đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực cùng với những thay đổi của tình hình đất nước, lý luận nhận thức của Đảng về nền KTTT định hướng XHCN bộc lộ những yếu kém, bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Có thể nói, so với thực tiễn, nhận thức của Đảng còn chậm ở một số vấn đề sau:
Về xóa bỏ độc quyền, đảm bảo tính cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế. Vì nhiều lí dó khác nhau, ở Việt Nam vẫn tồn tại một số lĩnh vực còn độc quyền nhà nước, quan điểm của Đảng là từng bước xóa bỏ điều này, để tạo cơ hội cạnh tranh
bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Thực tiễn chứng minh, việc xóa bỏ độc quyền DN trong một số lĩnh vực: ngân hàng, viễn thông, hàng không…đã mang lại lợi ích to lớn cho DN và người dân. DN buộc phải đổi mới để phát triển, còn người dân được dùng sản phẩm tốt, chất lượng cao với chi phí ngày càng hợp lí. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều lĩnh vực vẫn còn độc quyền: điện lực, xăng dầu, một số dịch vụ công ích,…mặc dù, Nhà nước đã có các cơ chế để kiểm soát độc quyền của các DN trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, sự kiểm soát đó chưa chặt chẽ, vẫn làm người dân nghi ngờ về cách tính giá điện, giá xăng dầu. Dư luận vẫn cho rằng các DN độc quyền đang được hưởng lợi lớn từ chính sách duy trì độc quyền. Như vậy, giữa nhận thức lý luận và thực tiễn vẫn còn một khoảng cách.
Về vai trò của khu vực KTNN và KTTN. Có thể nói, khu vực KTNN mặc dù được Đảng ưu đãi nhiều chính sách, nhưng thực tiễn thì nhiều DNNN lại làm ăn thua lỗ với số tiền rất lớn, hiệu quả sản xuất, kinh doanh trên vốn sở hữu của DNNN cũng thua kém so với các thành phần kinh tế khác. Nhưng hiện nay, các ưu đãi của DNNN vẫn còn, mặc dù Đảng có chủ trương bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Khu vực KTTN đã thể hiện tính năng động, sáng tạo, dễ dàng thích nghi với sự thay đổi của thị trường, khơi thông nhiều nguồn lực trong xã hội phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, vai trò đó của khu vực KTTN chưa được Đảng nhận thức rõ ràng, phải đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1-2016), Đảng mới thay đổi khi cho rằng khu vực KTTN là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế. Nếu sự thay đổi này diễn ra sớm hơn, KTTN đã có điều kiện phát triển hơn nữa.
Về phân bổ các nguồn lực nhà nước. Trong một thời gian dài, Đảng đều cho rằng nguồn lực đất nước chủ yếu được phân bổ cho khu vực KTNN (vốn, đất đai, lao động) mặc dù thực tiễn dễ nhận thấy các nguồn lực này được nhiều DNNN sử dụng lãng phí, dẫn đến thất thoát, không hiệu quả ( nhiều công trình có vốn đầu tư công đội vốn lên rất nhiều so với phê duyệt ban đầu, một số công trình xây dựng xong nhưng sử dụng không hiệu quả,…). Phải đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1-2016), Đảng mới khẳng định mạnh mẽ việc lấy thị trường, hiệu quả đầu tư làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực nhà nước.
Như vậy, so với yêu cầu từ thực tiễn, nhiều vấn đề lý luận của Đảng còn
chưa theo kịp dẫn đến hạn chế khả năng phát triển của nền kinh tế.
Nguyên nhân của hạn chế: Về mặt khách quan, Việt Nam chuyển đổi sang mô hình KTTT định hướng XHCN trong điều kiện xuất phát điểm của nền kinh tế còn nhiều khó khăn. Việt Nam đi lên xây dựng kinh tế từ một nước nghèo nàn lạc hậu, tiềm lực kinh tế yếu, trình độ khoa học công nghệ chậm phát triển, mô hình kinh tế lại mới, chưa có tiền lệ. Do vậy, nền tảng để xây dựng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam chưa vững chắc, gặp nhiều thách thức.
Về mặt chủ quan, hạn chế này bắt nguồn từ tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới. Một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành, như các vấn đề: sở hữu và thành phần kinh tế; cổ phần hoá DNNN; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế; đổi mới chính sách, cơ chế quản lý giáo dục, y tế, văn hoá; đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, vai trò của hệ thống giá cả trong nền KTTT định hướng XHCN....
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
4.2.1. Đường lối luôn được bổ sung, phát triển; tuân theo quy luật khách quan, bám sát thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường của thế giới
Đường lối phát triển nền KTTT định hướng XHCN của Đảng liên tục được bổ sung, phát triển. Quá trình nhận thức này mang tính kế thừa, thận trọng, từng bước. Sự bổ sung, phát triển đường lối là cần thiết để khắc phục những hạn chế, phát huy những quan điểm đúng đắn, phù hợp. Quá trình đổi mới, hoàn thiện tư duy về đường lối phát triển nền KTTT định hướng XHCN phải trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm và nhận thức quá trình phát triển kinh tế trên thực tiễn ( cả trong và ngoài nước), đồng thời kết hợp với sự nhận định, đánh giá đúng những xu thế, những nhân tố quan trọng của thời đại để áp dụng vào xây dựng đường lối kinh tế của Đảng.
Quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam đi đến mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công CNXH. Đường lối phát triển nền KTTT định
hướng XHCN luôn có sự phù hợp giữa lý luận và thực tiễn, trong đó thực tiễn là
thước đo trình độ nhận thức lý luận và kiểm nghiệm nhận thức lý luận về KTTT.
Đường lối xây dựng nền KTTT định hướng XHCN dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đó các nhân tố của KTTT, các quy luật kinh tế đóng vai trò động lực phát triển. Các nhân tố và bản chất của CNXH, đặc biệt là sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của nhà nước giữ vai trò định hướng, dẫn dắt nền kinh tế tới mục tiêu xác định. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam phải khác nền KTTT ở các nước TBCN khi nó hướng đến thực hiện các mục tiêu kinh tế và xã hội theo định hướng XHCN.
Phải khắc phục ngay lập tức lối suy nghĩ giản đơn, giáo điều lấy ý muốn chủ quan, quyền lực chính trị chủ quan để áp đặt trong việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN.
Đường lối xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN cần bám sát thực tiễn đất nước, tìm câu trả lời cho những vấn đề thực tiễn đặt ra, coi trọng tổng kết thực tiễn, xem đây là con đường dẫn đến phát triển lý luận. Do vậy, nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin đã được vận dụng vào bối cảnh mới của đất nước, với một tinh thần mới trên cơ sở đã được kiểm nghiệm bởi đời sống hiện thực của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, CNXH thế giới lâm vào thoái trào, chủ nghĩa Mác – Lê nin đứng trước thử thách nghiêm trọng nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định con đường mà Bác Hồ đã chọn.
Các chủ trương phát triển nền KTTT định hướng XHCN phải đảm bảo được lợi thế của KTTT trong việc tạo động cơ về lợi ích, thúc đẩy cạnh tranh và phát triển sản xuất, khai thác có hiệu quả các tiềm năng kinh doanh, tạo lập các điều kiện cần thiết để KTTT hạn chế được các mặt trái của nó; chủ động hướng KTTT vào việc nâng cao mức sống nhân dân, thể hiện bản chất của chế độ XHCN.
Việt Nam cần tiếp tục tiếp thu kinh nghiệm xây dựng nền KTTT từ các nước trên thế giới, đặc biệt từ những nước có nền KTTT lâu đời như Mỹ, Châu Âu và những nước có nền kinh tế chuyển đổi giống Việt Nam như Trung Quốc. Các nước