trị công ty (corporate governance) quan tâm tới các cơ chế quản lý hoạt động điều hành của BGĐ từ các bên liên quan như nhà đầu tư, cổ đông nhỏ lẻ, chủ nợ, cơ quan Nhà nước... Nói cách khác, vấn đề QTCT được đặt ra nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh được thực hiện đúng với mục đích ban đầu là tối ưu hóa lợi ích của các bên liên quan.
Quản trị công ty, theo nghĩa rộng, là hệ thống những cơ chế mà thông qua đó nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp bảo vệ mình khỏi những hành vi gây tổn hại đến quyền sở hữu doanh nghiệp của họ trước những thành phần nội bộ (bao gồm BGĐ và cổ đông kiểm soát) (La Porta và cộng sự, 2000). Tập trung trên khía cạnh của cổ đông, theo Parkinson (1995), QTCT là một quá trình giám sát và kiểm soát nhằm đảm bảo các hoạt động quản lý công ty được thực hiện phù hợp với lợi ích của cổ đông. Hay Shleifer và Vishny (1997) xem xét QTCT liên quan đến cách các nhà cung cấp tài chính đảm bảo có thể thu lợi từ đầu tư của mình. Nhìn chung, quan điểm này tập trung vào vấn đề người đại diện, về mâu thuẫn lợi ích giữa BGĐ và chủ sở hữu công ty. Mặt khác, vấn đề bất cân xứng thông tin đặt ra mâu thuẫn giữa cổ đông kiểm soát và cổ đông nhỏ lẻ, khi mà các cổ đông kiểm soát có thể dựa vào lợi thế của mình về quyền kiểm soát phục vụ lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm để đưa ra các quyết định gây bất lợi tới lợi ích của cổ đông nhỏ lẻ. Do vậy La Porta và cộng sự (2000) tin rằng QTCT ngoài việc ngăn chặn các hành vi gây phương hại tới quyền sở hữu của cổ đông của BGĐ, còn ngăn chặn các hành vi cổ đông kiểm soát gây tổn hại tới lợi ích của cổ đông nhỏ lẻ. Nhìn chung, QTCT được xem là cơ chế thúc đẩy sự công bằng và minh bạch và tín nhiệm (Tăng Thị Thanh Thủy, 2020).
Theo Ross và cộng sự (2005), Gillan (2006), QTCT bao gồm cơ chế giám sát nội bộ và cơ chế giám sát bên ngoài doanh nghiệp. Trong mô hình về cơ chế quản trị do Ross và cộng sự (2005) đề xuất, HĐQT là cơ quan đứng đầu của cơ chế quản trị nội bộ, chịu trách nhiệm tư vấn, giám sát quản lý, thuê, sa thải và trả lương, thưởng cho Ban giám đốc (Jensen, 1993). BGĐ là những cá nhân do HĐQT thuê, bổ nhiệm và chịu trách nhiệm điều hành doanh nghiệp. Là bên được ủy nhiệm, BGĐ đại diện cho cổ đông để đưa ra các quyết định đầu tư bao gồm việc lựa chọn tài sản đầu tư và cách thức tài trợ các khoản đầu tư. Cơ chế quản trị bên ngoài bao gồm các cổ đông không điều hành là người chủ sở hữu công ty và chủ nợ, được coi là bên cấp vốn cho
công ty. Mô hình thể hiện được liên kết giữa các thành phần tham gia, trong đó cổ đông là người cấp vốn, đồng thời bầu chọn các thành viên HĐQT, thay mặt cổ đông giám sát, tư vấn hoạt động của BGĐ. Trong khi đó chủ nợ là người cung cấp các khoản tín dụng, đồng thời có trách nhiệm giám sát BGĐ trong việc sử dụng các khoản vay và khả năng thu hồi nợ. Mở rộng hơn, Gillan (2006) đề xuất cơ chế về QTCT với các thành phần giám sát bên ngoài bao gồm cả luật pháp; thị trường vốn, thị trường kiểm soát doanh nghiệp, thị trường lao động và thị trường sản phẩm; các nhà cung cấp thông tin trên thị trường vốn như chuyên gia phân tích tín dụng, vốn chủ sở hữu và QTCT; các dịch vụ kế toán, tài chính, pháp lý từ các doanh nghiệp như công ty kiểm toán, bảo hiểm trách nhiệm và dịch vụ tư vấn ngân hàng đầu tư; và các cơ chế giám sát khác như các phương tiện truyền thông
Trong khi đó, theo nghĩa hẹp, QTCT chỉ bao gồm cơ chế quản trị từ bên trong đơn vị, thể hiện qua cơ chế giám sát nội bộ. Cụ thể, theo OECD (2015), QTCT là thủ tục và quy trình mà theo đó một tổ chức được điều hành và kiểm soát. Cơ cấu QTCT quy định rõ việc phân chia quyền lợi và trách nhiệm giữa các đối tượng tham gia tổ chức như HĐQT, BGĐ, cổ đông và các bên có quyền lợi liên quan khác và đặt ra các nguyên tắc, thủ tục cho việc ra quyết định. QTCT cũng tạo ra một cơ cấu nhằm đề ra các mục tiêu của công ty, và xác định các phương tiện để đạt được những mục tiêu đó, cũng như để giám sát hiệu quả hoạt động của công ty.
Tại Việt Nam, Chính phủ (2017) đã ban hành Nghị định 71/2017/NĐ-CP về quy chế QTCT, trong đó định nghĩa: “QTCT là hệ thống các nguyên tắc bao gồm, đảm bảo cơ cấu quản trị hợp lý, đảm bảo hiệu quả hoạt động của HĐQT, BKS; đảm bảo quyền lợi của cổ đông và những người có liên quan; đảm bảo đối xử công bằng giữa các cổ đông; công khai minh bạch cho mọi hoạt động của công ty”. Cách hiểu này tiếp cận về QTCT trên góc độ cơ chế giám sát nội bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế. So với khái niệm QTCT của OECD (2015), Nghị định 71 bổ sung thành phần của QTCT bao gồm cổ đông, HĐQT, BGĐ và cả BKS.
Trong phạm vi Luận án, tác giả tiếp cận khái niệm QTCT theo hướng tập trung vào các cơ chế nội bộ của doanh nghiệp, phù hợp với quy định tại Việt Nam. Theo đó, QTCT là các cơ chế nhằm đảm bảo quyền lợi của cổ đông và các bên liên quan,
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Nghiên Cứu Về Ảnh Hưởng Của Quản Trị Công Ty Tới Chất Lượng Thông Tin Kế Toán
- Cơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Thông Tin Kế Toán
- Mô Hình Chất Lượng Thông Tin Kế Toán Theo Chuẩn Mực Kế Toán Việt Nam (2002)
- Cơ Sở Lý Thuyết Về Tác Động Của Quản Trị Công Ty Tới Chất Lượng Thông Tin Kế
- Tác Động Của Đặc Điểm Hội Đồng Quản Trị Tới Chất Lượng Thông Tin Kế Toán
- Giả Thuyết Nghiên Cứu Liên Quan Tới Tác Động Của Cấu Trúc Sở Hữu Tới Chất Lượng Thông Tin Kế Toán
Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.
hướng tới sự công bằng, công khai, minh bạch về hoạt động kinh doanh của đơn vị.
2.2.2. Cơ chế quản trị công ty
Như đã phân tích, trong phạm vi Luận án, QTCT được hiểu là cơ chế nội bộ nhằm đảm bảo quyền lợi của cổ đông và các bên liên quan. QTCT được kỳ vọng là giải pháp cho vấn đề mâu thuẫn lợi ích giữa nhà quản lý và chủ sở hữu, cũng như mâu thuẫn giữa cổ đông nhỏ lẻ và cổ đông kiểm soát. Nghiên cứu về QTCT, được hiểu là nghiên cứu về các cơ chế QTCT, do vậy, thường tập trung vào hai vấn đề quan trọng là về cấu trúc sở hữu và đặc điểm quản trị công ty
Cấu trúc sở hữu:
Cấu trúc sở hữu được hiểu là sự phân bổ vốn chủ sở hữu theo quyền, có mối tương quan với tỷ lệ vốn chủ sở hữu được nắm giữ bởi các chủ sở hữu. Mỗi công ty, tùy vào số lượng sở hữu cổ phần khác nhau của các cổ đông, sẽ có cấu trúc sở hữu khác nhau.
Afify (2009) lập luận rằng các cổ đông đều có nhu cầu bình đẳng về thông tin, không có cổ đông nào có khuynh hướng chi phối thông tin nhiều hơn các cổ đông còn lại. Tại Việt Nam, quyền của cổ đông được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020 số 59/2020/QH. Theo đó, cổ đông có quyền tham dự, phát biểu trong cuộc họp Đại hội đồng cổ đông và thực hiện quyền biểu quyết trực tiếp. Các cổ đông lớn nắm giữ từ 5% tổng số cổ phần có quyền xem xét, tra cứu, trích lục sổ biên bản và nghị quyết, quyết định của HĐQT, BCTC giữa năm và hằng năm, báo cáo của BKS, hợp đồng, giao dịch phải thông qua HĐQT và tài liệu khác; yêu cầu BKS kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết. Ngoài ra Điều 4, Nghị định số 71/2017/NĐ-CP ban hành bởi Bộ Tài chính (2017) bổ sung quyền đối với cổ động liên quan tới sự công bằng, minh bạch. Theo đó, cổ đông có quyền được đối xử công bằng. Mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho cổ đông sở hữu các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau. Cổ đông có quyền được tiếp cận đầy đủ thông tin định kỳ và thông tin bất thường do công ty công bố theo quy định của pháp luật. Trong khi đó, cổ đông lớn không được lợi dụng ưu thế của mình gây ảnh hưởng đến các quyền, lợi ích của công ty và của các cổ đông khác.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc sở hữu cổ phần với số lượng khác nhau dẫn tới các
cổ đông có vị thế khác nhau. Các cổ đông lớn với ưu thế về số lượng cổ phần sở hữu hoặc đại diện, có quyền tham gia vào hệ thống QTCT, chi phối vấn đề quản trị và tiếp cận thông tin. Trong khi đó, các cổ đông thiểu số là các cá nhân hoặc tổ chức bên ngoài đơn vị lại gặp bất lợi so với cổ đông lớn. Khi quyền sở hữu tập trung vào tay của một hoặc một số cổ đông sẽ dẫn đến việc các cổ đông này có quyền kiểm soát và tác động đến hoạt động của doanh nghiệp. Theo Leech (1991), quyền kiểm soát được định nghĩa là quyền thực hiện toàn quyền đối với việc ra quyết định quan trọng bao gồm việc chỉ định BGĐ. Khi mức độ tập trung quyền sở hữu tăng lên, vấn đề người đại diện sẽ chuyển từ xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu và người quản lý sang mâu thuẫn giữa cổ đông kiểm soát và cổ đông thiểu số (Shleifer và Vishny, 1997). Ở chiều ngược lại, Donnelly và Lynch (2002) cho rằng tính tập trung của cấu trúc sở hữu làm cho các cổ đông kiểm soát có động lực bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách gia tăng sự giám sát đối với hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, một cấu trúc sở hữu tập trung có thể tác động lên CLTT kế toán theo hai hướng: thứ nhất, hướng tích cực – tính tập trung quyền sở hữu cao sẽ làm giảm khả năng điều chỉnh thông tin kế toán bởi nhà quản lý (Yeo và cộng sự, 2002), thứ hai, hướng tiêu cực – khi phần lớn cổ phần tập trung vào một số cổ đông lớn, sẽ phát sinh lợi ích nhóm, các cổ đông lớn này có thể gây sức ép tác động lên BGĐ, khiến họ phải thực hiện những hành vi điều chỉnh báo cáo dẫn đến suy giảm CLTT. Các nghiên cứu về QTCT đều xem xét cấu trúc sở hữu với các đặc điểm về tỷ lệ sở hữu như là một khía cạnh của QTCT. Các nghiên cứu này nhằm tìm kiếm câu trả lời về bằng chứng thực nghiệm về một cấu trúc sở hữu hợp lý mà qua đó hạn chế được mâu thuẫn giữa cổ đông kiểm soát và cổ đông nhỏ lẻ, đồng thời phát huy được chức năng giám sát đối với hoạt động quản lý của BGĐ. Kế thừa từ các nghiên cứu trước đó đã phân tích ở chương I và dựa trên các dữ liệu đã thu thập, Luận án tìm hiểu các tác động của QTCT tới CLTT kế toán trên góc độ cấu trúc sở hữu với các đặc điểm về sở hữu Nhà nước, sở hữu của cổ đông tổ chức và sở hữu BGĐ.
Đặc điểm quản trị công ty
QTCT là các cơ chế nhằm đảm bảo quyền lợi cổ đông và các bên liên quan, do vậy bên cạnh vấn đề cấu trúc sở hữu, các nghiên cứu về QTCT còn tập trung vào cơ chế quản trị, bao gồm Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát
Hội đồng quản trị
HĐQT, là một cơ chế quản trị, bao gồm những thành viên do cổ đông lựa chọn, đóng vai trò trung tâm trong hệ thống giám sát. Với chức năng là cơ quan quản lý của doanh nghiệp, HĐQT đại diện cho cổ đông thực hiện kiểm tra, theo dõi hoạt động của BGĐ, đóng một vị thế quan trọng trong việc kiểm soát vấn đề đại diện (García‐Meca và Sánchez‐Ballesta, 2009). Nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động, các thành viên trong HĐQT được bầu chọn từ các cổ đông, không chỉ là những cá nhân có sở hữu cổ phần đủ lớn, mà phải là những đại diện tiêu biểu đảm bảo tính khách quan, độc lập và được tín nhiệm về kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm đa dạng trong các lĩnh vực có liên quan như pháp luật, tài chính, kế toán, kinh doanh. Tuy vậy, tùy theo đặc điểm cấu tạo, không phải tất cả các HĐQT đều thực hiện tốt vai trò giám sát của mình. Các nghiên cứu về HĐQT thể hiện mối quan tâm của các học giả về việc đề xuất một mô hình HĐQT với các đặc điểm có thể phát huy tốt vai trò kiểm soát hoạt động của nhà điều hành.
Tại Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp 2020 số 59/2020/QH, HĐQT là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện quyền và nghĩa vụ của công ty, trừ các quyền và nghĩa vụ thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Nghị định số 71/2017/NĐ-CP quy định HĐQT phải chịu trách nhiệm trước cổ đông về hoạt động của công ty; đối xử bình đẳng đối với tất cả cổ đông và tôn trọng lợi ích của người có quyền lợi liên quan đến công ty; đảm bảo hoạt động của công ty tuân thủ các quy định của pháp luật, Điều lệ và quy định nội bộ của công ty; xây dựng Quy chế nội bộ về QTCT và trình Đại hội đồng cổ đông thông qua và báo cáo tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông. Cơ cấu thành viên HĐQT cần phải chú ý các nguyên tắc: Số lượng thành viên HĐQT từ 3 đến 11 người. Về tính kiêm nhiệm: Chủ tịch HĐQT không được kiêm nhiệm chức danh Giám đốc (Tổng giám đốc) của cùng 01 công ty đại chúng. Về tính độc lập: Cơ cấu HĐQT cần đảm bảo sự cân đối giữa các thành viên điều hành và các thành viên không điều hành, tối thiểu 1/3 tổng số thành viên HĐQT là thành viên không điều hành. Về đặc điểm của thành viên HĐQT, cần đảm bảo sự cân đối giữa các thành viên có kiến thức và kinh nghiệm về pháp luật, tài chính, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty và có xét yếu tố về giới. Các công ty, phụ thuộc vào đặc điểm doanh nghiệp, sẽ thực hiện việc bầu chọn thành viên
HĐQT thông qua đại Hội đồng cổ đông, đảm bảo quy định của pháp luật về cơ cấu thành viên HĐQT.
Kế thừa các nghiên cứu trước đó đã phân tích ở chương I và dựa trên các dữ liệu đã thu thập, Luận án tìm hiểu các tác động của QTCT tới CLTT kế toán trên khía cạnh HĐQT ở góc độ đặc điểm HĐQT. Các đặc điểm HĐQT được đề cập đến trong Luận án bao gồm quy mô HĐQT; tính kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và giám đốc điều hành, tính độc lập trong HĐQT; đặc điểm của thành viên HĐQT về thâm niên, giới tính và chuyên môn kế toán tài chính.
Ban kiểm soát
BKS, là một cơ chế quản trị, bao gồm các kiểm soát viên do Đại hội đồng cổ đông bầu chọn. Nghiên cứu của Bezemer và cộng sự (2007) cho rằng BKS là giải pháp cho vấn đề người đại diện. Sự giám sát của BKS giảm thiểu vấn đề bất cân xứng thông tin giữa cổ đông và nhà quản trị, ngăn cản các hành vi sai lệch vì mục đích cá nhân của các nhà điều hành. Theo Luật doanh nghiệp 2020 số 59/2020/QH, BKS có trách nhiệm thực hiện giám sát HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành công ty. Ngoài ra, Luật doanh nghiệp 2020 quy định BKS có trách nhiệm giám sát việc tổ chức thực hiện chiến lược phát triển, kế hoạch kinh doanh, thực hiện các mục tiêu chiến lược và mục tiêu kế hoạch của công ty; giám sát và đánh giá hiệu lực và mức độ tuân thủ quy chế kiểm toán nội bộ, quy chế quản lý và phòng ngừa rủi ro, quy chế báo cáo và các quy chế quản trị nội bộ khác của công ty; giám sát tính hợp pháp, tính hệ thống và trung thực trong công tác kế toán, sổ kế toán, trong nội dung BCTC, các phụ lục và tài liệu liên quan; giám sát các giao dịch của công ty với các bên có liên quan; giám sát thực hiện các dự án đầu tư lớn, giao dịch mua, bán và giao dịch kinh doanh khác có quy mô lớn hoặc giao dịch kinh doanh bất thường của công ty; lập và gửi báo cáo đánh giá, kiến nghị về các nội dung trên cho cơ quan đại diện chủ sở hữu.
Về mặt cơ cấu quản lý, không phải mọi công ty cổ phần đều phải có BKS. Điều này phụ thuộc vào quy định của từng quốc gia. Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp 2020 số 59/2020/QH, các công ty cổ phần có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai mô hình: (1) Đại hội đồng cổ đông, HĐQT, Ban kiểm soát
và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp công ty cổ phần có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có BKS; (2) Đại hội đồng cổ đông, HĐQT và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên HĐQT phải là thành viên độc lập và có Ủy ban kiểm toán trực thuộc HĐQT. Như vậy, nếu thỏa mãn điều kiện, các doanh nghiệp có quyền lựa chọn mô hình QTCT có BKS hoặc mô hình QTCT không có BKS nhưng có Ủy ban kiểm toán trực thuộc HĐQT. Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban kiểm toán quy định tại Điều lệ công ty hoặc quy chế hoạt động của Ủy ban kiểm toán do HĐQT ban hành. Khác với BKS thực hiện giám sát cả HĐQT và BGĐ, Ủy ban kiểm toán là cơ quan chuyên môn thuộc HĐQT tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ giám sát hoạt động của doanh nghiệp, cụ thể: (a) Giám sát tính trung thực của báo cáo tài chính của công ty và công bố chính thức liên quan đến kết quả tài chính của công ty; (b) Rà soát hệ thống kiểm soát nội bộ và quản lý rủi ro; (c) Rà soát giao dịch với người có liên quan thuộc thẩm quyền phê duyệt của HĐQT hoặc Đại hội đồng cổ đông và đưa ra khuyến nghị về những giao dịch cần có phê duyệt của HĐQT hoặc Đại hội đồng cổ đông; (d) Giám sát bộ phận kiểm toán nội bộ của công ty;đ) Kiến nghị công ty kiểm toán độc lập, mức thù lao và điều khoản liên quan trong hợp đồng với công ty kiểm toán để HĐQT thông qua trước khi trình lên Đại hội đồng cổ đông thường niên phê duyệt; (e) Theo dõi và đánh giá sự độc lập, khách quan của công ty kiểm toán và hiệu quả của quá trình kiểm toán, đặc biệt trong trường hợp công ty có sử dụng các dịch vụ phi kiểm toán của bên kiểm toán; (g) Giám sát nhằm bảo đảm công ty tuân thủ quy định của pháp luật, yêu cầu của cơ quan quản lý và quy định nội bộ khác của công ty. Mô hình quản trị có sự tham gia của Ủy ban kiểm toán được coi là mô hình tiến bộ, xuất hiện nhiều tại các quốc gia trên thế giới như Anh, Mỹ. Trong đó, vai trò về việc giám sát hướng tới công khai, minh bạch được đánh giá cao, đặc biệt là quyền giám sát bộ phận kiểm toán nội bộ và đề xuất đơn vị kiểm toán độc lập. Trên thực tế ở Việt Nam, hầu hết các công ty niêm yết đều lựa chọn mô hình quản lý có sự tham gia của BKS. Về cơ cấu thành viên BKS cần chú ý nguyên tắc: Về quy mô, số lượng Kiểm soát viên ít nhất là 03 người và nhiều nhất là 05 người. Về yêu cầu trình độ, Đối với công ty niêm yết và công ty đại chúng do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, Kiểm soát viên phải là kiểm toán viên hoặc kế toán viên. Trưởng BKS
phải là kế toán viên hoặc kiểm toán viên chuyên nghiệp và phải làm việc chuyên trách tại công ty.
Xuất phát từ vấn đề thực tiễn, kế thừa các nghiên cứu trước đó đã phân tích ở chương I và dựa trên các dữ liệu đã thu thập, Luận án tìm hiểu các tác động của QTCT tới CLTT kế toán trên khía cạnh BKS ở góc độ đặc điểm BKS. Các góc độ về đặc điểm BKS được đề cập đến trong Luận án bao gồm quy mô, thâm niên, chuyên môn kế toán tài chính và giới tính của thành viên BKS.
2.2.3. Nguyên tắc quản trị công ty
Tại Việt Nam, nguyên tắc của QTCT, theo Nghị định 71/2-17/NĐ-CP, bao gồm:
Một là, đảm bảo cơ cấu quản trị hợp lý. Gillan (2006) cho rằng cơ chế QTCT bao gồm cơ chế nội bộ và cơ chế bên ngoài. Cơ chế quản trị bên ngoài được xem là yếu tố môi trường bên ngoài như luật pháp, thị trường hoặc các cơ chế giám sát khác tác động đến hoạt động quản trị của đơn vị. Trong khi đó, cơ chế quản trị nội bộ bao gồm các cơ chế liên quan tới HĐQT, cơ chế khuyến khích, cấu trúc vốn, quy chế và điều lệ, hệ thống kiểm soát nội bộ. Ngoài ra, ở Việt Nam và một số quốc gia như Trung Quốc, Hà Lan, thành phần quản trị còn có BKS. Mỗi đơn vị có đặc thù riêng, do vậy nhiệm vụ của QTCT là cần thiết kế và vận hành một cơ cấu hợp lý về quy mô, thành phần, phù hợp pháp luật, hướng tới mục tiêu chung là đảm bảo sự minh bạch, công bằng.
Hai là, đảm bảo hiệu quả hoạt động của HĐQT và BKS. HĐQT và BKS là các cơ chế quản trị quan trọng nằm trong hệ thống QTCT. Trong đó, HĐQT được tập hợp bởi các thành viên do đại Hội đồng cổ đông bầu ra, nhằm đại diện cho cổ đông thực hiện các chức năng giám sát hoạt động kinh doanh của BGĐ và xây dựng chiến lược, mục tiêu dài hạn cho đơn vị. BKS do cổ đông bầu chọn với chức năng giám sát HĐQT, BGĐ (giám đốc hoặc tổng giám đốc) trong việc quản lý và điều hành công ty, kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập BCTC cũng như thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, BCTC hàng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT. Hoạt động QTCT hiệu quả khi HĐQT và BKS thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình, đặc biệt là chức năng