Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01(Bộ Tài chính, 2002), thông tin kế toán phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản, bao gồm tính trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời, dễ hiểu, và có thể so sánh, thể hiện qua sơ đồ 2.2.
Sơ đồ 2.2. Mô hình chất lượng thông tin kế toán theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam (2002)
Thông tin kế toán
Trung thực
Kịp thời
Dễ hiểu
Có thể so sánh
Khách quan
Đầy đủ
Nguồn: Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 (2002)
Tính trung thực thể hiện các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan và đúng với thực tế về hiện trạng, bản chất nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Đặc điểm khách quan cho thấy các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi
chép và báo cáo đúng với thực tế, không bị xuyên tạc, bóp méo.
Thông tin được coi là đầy đủ khi mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan tới kỳ kế toán phải được ghi chép và báo cáo đầy đủ, không bị bỏ sót.
Ngoài ra, các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp thời,
đúng hoặc trước thời hạn quy định, không được chậm trễ.
Tính dễ hiểu thể hiện ở việc các thông tin và số liệu kế toán được trình bày trong BCTC phải rõ ràng, dễ hiểu đối với người sử dụng. Thông tin về những vấn đề phức tạp trong BCTC phải được giải trình trong phần thuyết minh.
Thông tin kế toán phải có thể so sánh, nghĩa là các thông tin và số liệu kế toán cần được tính toán và trình bày nhất quán. Trường hợp không nhất quán thì phải giải trình trong phần thuyết minh để người sử dụng BCTC có thể so sánh và đánh giá.
Trong các đặc tính nói trên, đặc tính trung thực được xem là đặc điểm cơ bản, bao gồm cả tính khách quan và đầy đủ.
Nhìn chung, mặc dù các thuộc tính của CLTT kế toán được nhắc tới trên nhiều khía cạnh khác nhau, tuy nhiên trong phạm vi luận án, tác giả tập trung vào thuộc tính trung thực do đặc điểm này được coi là thuộc tính cơ bản của thông tin kế toán, được nhấn mạnh trong Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 (Bộ Tài chính, 2002), đồng thuận với quan điểm của Hiệp hội nghề nghiệp kế toán như FASB và IASB.
Như vậy, CLTT kế toán trên khía cạnh trung thực được hiểu là mức độ mà thông tin kế toán phản ánh các thông tin một cách đầy đủ, khách quan và không có sai sót trọng yếu.
2.1.2. Các phương pháp đo lường chất lượng thông tin kế toán
Như đã phân tích trong phần 2.1.1, luận án tập trung đo lường CLTT kế toán trên khía cạnh trung thực, do vậy các phương pháp được trình bày là các cách thước đo lường CLTT kế toán gắn với tính trung thực. Tính trung thực của thông tin kế toán được hiểu là đặc tính thể hiện thông tin kế toán được cung cấp đầy đủ, khách quan và không có sai sót trọng yếu.
TTKT trên BCTC rất đa dạng, bao gồm các thông tin về tài sản, nguồn vốn, lợi nhuận và các dòng tiền, trong đó thông tin về lợi nhuận được xem là cơ sở quan trọng để người sử dụng thông tin đưa ra quyết định. Do vậy trong các nghiên cứu về TTKT, các nhà khoa học chủ yếu tập trung vào thông tin lợi nhuận. Mặt khác, theo Botosan (2004), việc đo lường một cách trực tiếp CLTT kế toán trên cơ sở tính trung thực gặp rất nhiều khó khăn. Các nghiên cứu liên quan tới CLTT kế toán do đó được thực hiện gián tiếp theo hai hướng: một là thông tin kế toán được coi là trung thực khi không có hiện tượng quản trị lợi nhuận, và hai là tính trung thực thể hiện trong việc BCTC không có sai sót trọng yếu.
2.1.2.1. Quản trị lợi nhuận
Quản trị lợi nhuận là một chủ đề được các học giả kinh tế quan tâm, xảy ra khi nhà quản trị can thiệp vào việc ghi nhận thông tin tài chính hay cấu trúc lại những giao dịch mua bán thông thường để thay đổi con số cuối cùng trên BCTC, nhằm làm sai lệch kỳ vọng của cổ đông vào tình trạng kinh tế thực sự của công ty hoặc tác động
tích cực lên kết quả các hợp đồng dựa vào số liệu kế toán được công bố (Healy và Wahlen, 1999). Một số nghiên cứu cho rằng quản trị lợi nhuận có thể là các hoạt động của nhà quản trị nhằm đạt được các mục tiêu lợi nhuận (Degeorge và cộng sự, 1999) hoặc nhằm đạt được thu nhập cá nhân của nhà quản trị (Cheng và Warfield, 2005) hoặc nhằm tác động đến các hoạt động phát hành cổ phiếu (Cohen và Zarowin, 2010). Nhìn chung, các hành vi này đã khiến BCTC vi phạm tính khách quan, dẫn tới người sử dụng thông tin có cái nhìn sai lệch về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, BCTC có hiện tượng quản trị lợi nhuận thể hiện CLTT kế toán thấp. Để đo lường quản trị lợi nhuận, hầu hết các nghiên cứu về CLTT kế toán đều sử dụng thước đo về mức độ dồn tích bất thường, phương pháp này do đó được gọi là quản trị lợi nhuận trên cơ sở dồn tích.
Quản trị lợi nhuận trên cơ sở dồn tích (accrual-based earnings management) là khái niệm liên quan tới việc các nhà quản trị điều chỉnh lợi nhuận kế toán bằng thay đổi phương pháp kế toán hoặc phương pháp ước lượng khi thể hiện một giao dịch trên BCTC (Zang, 2011) như thay đổi ước tính dự phòng, thay đổi phương pháp tính khấu hao tài sản cố định, hay thay đổi cách tính giá hàng xuất kho… Việc thay đổi này không ảnh hưởng tới dòng tiền của đơn vị nhưng lại làm thay đổi lợi nhuận trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, do vậy làm phát sinh các khoản chênh lệch giữa lợi nhuận và dòng tiền, hay còn gọi là các khoản dồn tích (accruals).
Cơ sở dồn tích là nguyên tắc kế toán cơ bản tại Việt Nam cũng như trên thế giới, theo đó nghiệp vụ kinh tế được ghi nhận tại thời điểm phát sinh chứ không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền. Điều này dẫn tới sự không đồng nhất giữa dòng tiền và lợi nhuận kế toán, tạo ra các khoản dồn tích. Các chuẩn mực kế toán cho phép doanh nghiệp sử dụng khá nhiều các khoản dồn tích, liên quan đến khấu hao, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng đầu tư tài chính, dự phòng phải thu khó đòi... Tuy nhiên, việc xác định các giá trị ước tính liên quan đến các khoản dồn tích phụ thuộc rất nhiều vào ý kiến chủ quan của nhà điều hành, ảnh hưởng đến việc ghi nhận doanh thu, chi phí và lợi nhuận báo cáo trong kỳ. Về mặt bản chất, việc phát sinh các khoản dồn tích tại đơn vị là hoạt động thường xuyên do áp dụng nguyên tắc cơ sở dồn tích. Tuy nhiên, khi nhà điều hành thay đổi các phương pháp ước lượng kế toán sẽ dẫn đến các khoản dồn tích tăng lên trên mức thông thường, do đó được gọi là các
khoản dồn tích bất thường. Các khoản dồn tích bất thường càng lớn, mức độ quản trị lợi nhuận càng tăng, dẫn tới CLTT kế toán càng giảm.
Nhằm xác định giá trị các khoản dồn tích bất thường, cần xác định giá trị các khoản dồn tích thông thường (khoản dồn tích không thể điều chỉnh). Chênh lệch giữa tổng giá trị các khoản dồn tích và giá trị các khoản dồn tích thông thường chính là giá trị các khoản dồn tích bất thường, thể hiện qua công thức:
DAi,t= TAi,t − NDAi,t
Trong đó:
TAi,t: Tổng các khoản dồn tích NDAi,t: Khoản dồn tích thông thường DAi,t: Khoản dồn tích bất thường
Trong khi đó, các khoản dồn tích là chênh lệch giữa lợi nhuận thuần từ hoạt
động kinh doanh và dòng tiền hoạt động, được xác định theo công thức:
TAi,t = NOPi,t − CFOi,t
Trong đó:
TAi,t: Tổng các khoản dồn tích
NOPi,t: Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
CFOi,t: Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
Như vậy, vấn đề trọng tâm của phương pháp đo lường là xác định giá trị của các khoản dồn tích thông thường. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số phương pháp tính khác nhau nhằm xác định khoản giá trị này.
Theo Jones (1991), khối lượng đầu tư tăng bắt buộc kéo theo tài sản vận hành tăng, do vậy làm tăng các khoản dồn tích, và đây là khoản dồn tích thông thường. Trong mô hình ban đầu, Jones ước tính các khoản dồn tích thông thường là mức dồn tích bình quân của ngành được ước tính dựa trên mức tăng trưởng doanh thu và tài sản cố định của các doanh nghiệp cùng ngành. Mức độ dồn tích bất thường chính là trị tuyệt đối sự khác biệt
giữa tổng dồn tích với mức độ dồn tích thông thường. Khoản dồn tích bất thường càng cao thì khả năng quản trị lợi nhuận càng lớn.
Tuy nhiên, Dechow và cộng sự (1995) cho rằng mô hình Jones (1991) gặp hạn chế trong trường hợp nhà quản trị có thể tăng doanh thu cuối năm bằng cách bán hàng trả chậm hơn mức bình thường, dẫn tới doanh thu và các khoản dồn tích đều tăng nhưng không chắc các khoản nợ phải thu này sẽ thu hồi được. Do vậy, Dechow và cộng sự đã đề xuất hiệu chỉnh mô hình Jones (1991) bằng cách bổ sung phần tăng giảm các khoản phải thu.
Phát triển từ mô hình của Dechow và cộng sự (1995), Kothari và cộng sự (2005) cho rằng để ước lượng các khoản dồn tích tin cậy hơn cần kiểm soát hiệu quả hoạt động của công ty nên đã đề xuất đưa biến ROA vào mô hình nghiên cứu
2.1.2.2. Sai sót trên báo cáo tài chính
Sai sót trên BCTC (misstatements) là sự khác biệt giữa giá trị, cách phân loại, trình bày hoặc thuyết minh của một khoản mục trên BCTC với giá trị, cách phân loại, trình bày hoặc thuyết minh của khoản mục đó theo khuôn khổ về lập và trình bày BCTC được áp dụng (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 450, 2012). Các sai sót trên BCTC sẽ dẫn đến BCTC sai lệch, do vậy gây phương hại tới lợi ích của người có liên quan khi sử dụng thông tin làm cơ sở đưa ra quyết định. Theo đó, CLTT kế toán được đánh giá cao khi công ty không có hiện tượng sai sót trên BCTC. Khi sai sót trên BCTC được xác định là hành vi cố ý, được gọi là gian lận (frauds). Tuy nhiên, rất khó để xác định sai sót là hành vi có chủ đích hay không, do vậy các nhà nghiên cứu thường sử dụng chung cả hai khái niệm sai sót và gian lận nhằm phản ánh sai sót nói chung trên BCTC. Các chuẩn mực kiểm toán của Mỹ định nghĩa sai sót/ gian lận BCTC là hành vi gây ra sai lệch trọng yếu của BCTC. Theo Hiệp hội các nhà điều tra gian lận Hoa Kỳ, sai sót/ gian lận BCTC là sự xuyên tạc về tình trạng tài chính của một doanh nghiệp được thực hiện thông qua sự trình bày sai hoặc bỏ sót số tiền hoặc thông tin thuyết minh trong BCTC để đánh lừa người sử dụng BCTC. Nhìn chung, quan điểm của các hiệp hội và chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam và trên thế giới đều xem xét sai sót trên BCTC trên góc độ trọng yếu. Trong đó, thông tin sai sót được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng
đến các quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320). Sai sót trọng yếu, do đó, được hiểu là sai sót ở mức ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng thông tin.
Để xác định một đơn vị có sai sót trên BCTC hay không, một số nghiên cứu sử dụng dữ liệu về các công ty gian lận BCTC theo báo cáo AAERs (Accounting and Auditing Enforcement Release) của Ủy ban chứng khoán và Sàn giao dịch Mỹ (SEC) (Beasley, 1996; Roden và cộng sự, 2016).
Một hướng nghiên cứu khác để xác định sai sót trọng yếu là dựa vào việc điều chỉnh BCTC (restatements), cho thấy các báo cáo được công bố trước đó không trung thực. Nghiên cứu của Qiu và cộng sự (2019) đã chứng minh việc điều chỉnh BCTC là yếu tố quan trọng thể hiện khả năng công ty đã có sai sót trên BCTC. Theo Badertscher & Burks (2012), sự điều chỉnh BCTC diễn ra khi các công ty được yêu cầu phải lập lại các BCTC do BCTC được công bố trước đó có chứa sai sót kế toán trọng yếu. Các nghiên cứu này căn cứ vào chênh lệch BCTC trước và sau kiểm toán có vượt ngưỡng trọng yếu hay không. Theo Kinney (1994) và chương trình kiểm toán mẫu báo cáo tài chính hướng dẫn bởi Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) (2019), sai sót trên BCTC được xác định bằng tỷ lệ chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm toán, trong đó, dù lợi nhuận được điều chỉnh tăng hay giảm đều thể hiện có sai sót trên BCTC, do đó, mức chênh lệch lợi nhuận được trị tuyệt đối.
Lợi nhuận sau kiểm toán - Lợi nhuận trước kiểm toán |
= |
Lợi nhuận trước kiểm toán |
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Các Nghiên Cứu Liên Quan Tới Tác Động Của Quản Trị Công Ty Tới Chất Lượng Thông Tin Kế Toán
- Một Số Nghiên Cứu Về Ảnh Hưởng Của Quản Trị Công Ty Tới Chất Lượng Thông Tin Kế Toán
- Cơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Thông Tin Kế Toán
- Nghiên cứu tác động của quản trị công ty tới chất lượng thông tin kế toán của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 8
- Cơ Sở Lý Thuyết Về Tác Động Của Quản Trị Công Ty Tới Chất Lượng Thông Tin Kế
- Tác Động Của Đặc Điểm Hội Đồng Quản Trị Tới Chất Lượng Thông Tin Kế Toán
Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.
Căn cứ của quan điểm này là BCTC đã kiểm toán được tin tưởng có thể cung cấp một sự đảm bảo hợp lý cho việc cung cấp thông tin một cách trung thực về các hiện tượng kinh tế. Điều này đồng thời đảm bảo đặc tính được kiểm chứng, được coi là một đặc tính nâng cao trong CLTT kế toán. Như vậy, việc những doanh nghiệp có sự điều chỉnh thông tin kế toán sau kiểm toán ở mức trọng yếu cho thấy CLTT kế toán được công bố của các doanh nghiệp này trước đó là thấp. Nghiên cứu của Kinney (1994) cũng như hướng dẫn của VACPA cho rằng nếu tỷ lệ giữa giá trị sai sót và lợi nhuận ít hơn 5% là chắc chắn không trọng yếu; nếu nằm trong khoảng từ 5% - 10% được xem là có khả năng trọng yếu và nếu trên 10% được xem là chắc chắn trọng
yếu. Do vậy các nghiên cứu khi đo lường sai sót thường tập trung ở mức lợi nhuận chênh lệch 5% (Nguyễn Tiến Hùng và cộng sự, 2018; Kinney, 1994) hoặc 10% (Trần Thị Giang Tân và cộng sự, 2014)
Một số nhà nghiên cứu có cách tiếp cận khác về chất lượng lượng TTKT qua sai sót đó là dựa vào ý kiến của đơn vị kiểm toán độc lập. Các nghiên cứu của Kim và Yang (2007), Willekens (2008) đều cho rằng báo cáo kiểm toán thể hiện ý kiến của kiểm toán viên về tính trung thực và hợp lý của BCTC có khả năng cung cấp một sự đảm bảo phù hợp về tính trung thực của báo cáo kế toán. Có bốn loại ý kiến kiểm toán, bao gồm ý kiến chấp nhận toàn phần, ý kiến ngoại trừ, ý kiến trái ngược và ý kiến từ chối. Kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần trong trường hợp kiểm toán viên kết luận rằng BCTC đã được lập phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày BCTC được áp dụng, tức là báo cáo của đơn vị được kiểm toán không còn sai sót trọng yếu trên các khía cạnh trọng yếu. Theo Chuẩn mực kiểm toán 705 (Bộ tài chính, 2012), trong trường hợp đơn vị kiểm toán không chỉnh sửa theo ý kiến của kiểm toán viên, kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần mà sẽ đưa một trong ba dạng ý kiến được gọi là “ý kiến kiểm toán ngoại trừ”, “ý kiến kiểm toán trái ngược” và “từ chối đưa ra ý kiến”. Kiểm toán viên phải trình bày “ý kiến kiểm toán ngoại trừ” khi kiểm toán viên kết luận là các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với BCTC; hoặc kiểm toán viên không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán, nhưng kiểm toán viên kết luận rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể là trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với BCTC. “Ý kiến kiểm toán trái ngược” được đưa ra khi dựa trên các bằng chứng kiểm toán đầy đủ, thích hợp đã thu thập được, kiểm toán viên kết luận là các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu và lan tỏa đối với BCTC. Kiểm toán viên phải từ chối đưa ra ý kiến khi không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán và kiểm toán viên kết luận rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể là trọng yếu và lan tỏa đối với BCTC. Maines và Wahen (2006) cho rằng báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần chính là điều kiện cần thiết để thể hiện TTKT là được trung thực. Theo đó, CLTT kế toán được xác định khi đơn vị nhận được ý kiến
chấp nhận toàn phần hay không (Dechow và cộng sự, 2011; Pucheta‐Martínez và cộng sự, 2016)
Trong phạm vi luận án tác giả sử dụng hai cách đo lường là quản trị lợi nhuận và sai sót trên BCTC. Đây là hai thước đo được các nhà nghiên cứu sử dụng phổ biến, và được đánh giá phản ánh được CLTT kế toán trên khía cạnh trung thực. Theo đó, quản trị lợi nhuận được đo bằng giá trị của các khoản dồn tích bất thường. Do Việt Nam chưa có báo cáo về gian lận và sai sót của các công ty niêm yết, vì vậy tác giả xác định sai sót trên BCTC bằng chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm toán kết hợp ý kiến kiểm toán. CLTT kế toán được xác định bằng mối quan hệ ngược chiều với quản trị lợi nhuận và sai sót trên BCTC, đo lường bằng giá trị các khoản dồn tích bất thường và việc BCTC nhận được ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần hay có chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm toán có vượt ngưỡng trọng yếu hay không.
2.2. Cơ sở lý luận về quản trị công ty
2.2.1. Khái niệm quản trị công ty
Sự phát triển về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp dẫn tới nhu cầu cấp bách của đơn vị về vốn, kéo theo việc mở rộng quy mô tài sản, các khoản nợ và nguồn vốn từ chủ sở hữu. Tại các công ty có nhiều chủ sở hữu, việc thống nhất về vấn đề điều hành giữa các chủ sở hữu gặp nhiều khó khăn, do vậy chủ sở hữu sẽ ủy quyền cho một hoặc một số cá nhân (BGĐ) với kỳ vọng người được ủy quyền sẽ sử dụng hiệu quả nguồn vốn, làm tối ưu hóa lợi ích chủ sở hữu. Tuy nhiên, trên thực tế, BGĐ không nhất thiết đưa ra các quyết định vì lợi ích của cổ đông mà có thể xuất phát từ lợi ích cá nhân như lương thưởng, hoặc lợi ích nhóm. Nhằm che giấu các vấn đề về hoạt động kinh doanh của đơn vị, BGĐ có đủ động cơ và cơ hội trong việc cung cấp thông tin sai lệch về đơn vị cho các chủ sở hữu. Mặc dù là người hưởng lợi cuối cùng từ kết quả kinh doanh của đơn vị, chủ sở hữu lại là người bị động trong việc tiếp cận thông tin kế toán, dẫn tới nguy cơ đưa ra các quyết định sai lầm do vấn đề về tính bất cân xứng thông tin. Do vậy, chủ sở hữu cần tạo một cơ chế giám sát hoạt động điều hành của BGĐ để đảm bảo quyền lợi của mình, gọi là QTCT. Khác với khái niệm quản trị kinh doanh (Business management) hướng tới công tác điều hành quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do BGĐ thực hiện, khái niệm Quản