Cơ Sở Lý Thuyết Về Tác Động Của Quản Trị Công Ty Tới Chất Lượng Thông Tin Kế


giám sát, qua đó ngăn chặn các hành vi gian lận, gây phương hại tới lợi ích của các bên liên quan

Ba là, đảm bảo quyền lợi của cổ đông và các bên có liên quan. Ngoài cổ đông với tư cách là chủ sở hữu có liên đới trực tiếp về quyền lợi về tài sản và hoạt động kinh doanh của, các bên có liên quan tới công ty bao gồm các cơ quan Nhà nước, chủ nợ, nhà đầu tư, nhà cung cấp, người lao động… Những cá nhân hay tổ chức này có quyền lợi liên quan tới hoạt động của đơn vị, như cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng giám sát và thu thuế; chủ nợ cấp tín dụng, theo dõi và thu hồi nợ, nhà đầu tư xem xét các vấn đề liên quan tới đầu tư hoặc rút vốn khỏi đơn vị, người lao động liên quan tới các chi phí lương và các khoản hỗ trợ… Do vậy, QTCT cần phải hướng tới nhiệm vụ tôn trọng và đảm bảo cho quyền lợi của các bên liên quan bao gồm các cá nhân bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, cũng như chịu trách nhiệm về các khiếu nại, tố cáo khi vi phạm quyền, luật lao động, quyền được tiếp cận thông tin kịp thời và tin cậy, quyền của chủ nợ trong trường hợp phá sản.

Bốn là, đảm bảo đối xử công bằng giữa các cổ đông. Vấn đề bất cân xứng thông tin làm phát sinh mâu thuẫn giữa cổ đông kiểm soát và cổ đông nhỏ lẻ. Các cổ đông kiểm soát với lợi thế về tỷ lệ sở hữu có thể tham gia vào hoạt động điều hành hoặc giám sát. Trong khi đó, cổ đông nhỏ lẻ là chủ sở hữu nhưng bị hạn chế quyền trực tiếp tham gia hoạt động nói trên. Do đó các nhà khoa học có cơ sở tin rằng, các cổ đông lớn nắm quyền kiểm soát có thể thể tận dụng vị thế của mình để đưa ra các quyết định gây phương hại tới lợi ích của cổ đông nhỏ lẻ. Do vậy, việc QTCT cần đặt nhiệm vụ đối xử công bằng giữa các cổ đông, liên quan tới các chính sách biểu quyết, hạn chế các giao dịch nội gián, giảm thiểu xung đột lợi ích và hướng tới sự chính trực, công bằng.

Năm là, công khai, minh bạch mọi hoạt động của công ty. Các thông tin công bố bao gồm cả thông tin bắt buộc và tự nguyện, thông tin tài chính hay phi tài chính đều cần phải đảm bảo tính trung thực, hợp lý và kịp thời. Trong đó, các thông tin về BCTC không chỉ được giám sát bởi các cơ chế nội bộ mà còn bởi các tổ chức kiểm toán độc lập có uy tín từ bên ngoài. Việc công khai, minh bạch không chỉ đảm bảo lợi ích của các bên liên quan mà còn làm tăng uy tín của đơn vị. Nhà nước, chủ nợ, nhà


đầu tư hay các đối tác sẽ đánh giá cao các đơn vị có hệ thống thông tin công bố minh bạch.

2.3. Cơ sở lý thuyết về tác động của quản trị công ty tới chất lượng thông tin kế

toán


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.

2.3.1. Các lý thuyết nền


Thông tin kế toán trên BCTC phản ánh tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của một doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu hữu ích cho số đông những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế (Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21, 2003), và được coi là cơ sở để ra quyết định đối với người sử dụng. Đối tượng sử dụng thông tin kế toán rất đa dạng, bao gồm cả nhóm đối tượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, có thể kể đến như nhà điều hành, chủ sở hữu, nhà đầu tư, chủ nợ hay các cơ quan quản lý. Mỗi nhóm đối tượng có mục đích sử dụng thông tin khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, thông tin kế toán được cung cấp bởi nhà điều hành, và không phải lúc nào cũng đảm bảo chất lượng, tức là phản ánh được trung thực hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp. Bên cạnh một số nguyên nhân khách quan, các nhà khoa học đã lý giải hiện tượng này bằng một số lý thuyết nền thể hiện vấn đề đến từ chính doanh nghiệp.

2.3.1.1. Lý thuyết thông tin bất cân xứng


Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) được khởi xướng bởi Akerlof (1970), phản ánh việc các bên tham gia trong giao dịch kinh tế, có một số người có đầy đủ thông tin hơn những người khác. Sự thuận tiện hay thiệt thòi về thông tin sẽ ảnh hưởng lên quyết định lựa chọn của họ, khiến cho kết quả giao dịch không còn ở trạng thái tối ưu. Theo đó, BGĐ là những người đứng đầu và điều hành doanh nghiệp, cung cấp thông tin về tình hình tài chính qua BCTC, trong khi cổ đông là chủ sở hữu doanh nghiệp lại là những người sử dụng thông tin về tình hình hoạt động của công ty. Với vị thế đó, BGĐ sẽ nắm được thông tin rõ hơn so với cổ đông, người vốn dĩ là chủ của doanh nghiệp. Do vậy, cổ đông sẽ có tâm lý lo lắng do không đủ căn cứ để đánh giá được liệu những thông tin mà BGĐ cung cấp đã trung thực, hợp lý hay chỉ là những thông tin được thổi phồng, từ đó thiếu cơ sở để đưa ra các quyết định. Điều này tương tự như trong thị trường ô tô, người bán có thể biết rõ đặc


tính chiếc xe của mình muốn bán và bán với giá cao hơn. Còn người mua không có những thông tin xác thực, đầy đủ và kịp thời của chiếc ô tô mình muốn mua nên có thể trả giá thấp hơn giá trị thực của chiếc ô tô đó. Tình trạng này gây ra tổn thất xã hội và nhiều vấn đề khác như sự mất lòng tin vào sản phẩm tương tự có chất lượng tốt trên thị trường.

Hiện tượng thông tin bất cân xứng này dẫn đến hai hệ quả đó là: sự lựa chọn đối nghịch (adverse selection) và rủi ro đạo đức (moral hazard). Lựa chọn đối nghịch xảy ra khi trong một thị trường, người bán hoặc người mua biết rõ hơn về tính chất sản phẩm mà đối tượng kia không biết. Rủi ro đạo đức xảy ra khi một bên có nhiều thông tin hơn và che đậy hành vi sau khi ký kết hợp đồng giao dịch, tạo ra bất lợi cho đối phương để trục lợi. Trên thị trường tài chính, với mục đích thu hút vốn đầu tư từ những chủ thể bên ngoài vốn hạn chế về nguồn thông tin, BGĐ có xu hướng điều chỉnh thông tin theo hướng có lợi cho doanh nghiệp, gây bất lợi về thông tin đối với các nhà đầu tư. Đứng trên góc độ mối quan hệ giữa chủ sở hữu và BGĐ, khi ký kết hợp đồng ủy thác, BGĐ cam kết sử dụng nguồn lực tài chính đúng mục đích, cùng các điều khoản về cách thức phân phối các khoản lợi nhuận từ việc khai thác nguồn lực tài chính ấy. Mặc dù đã cố gắng bao quát tất cả các điều khoản nhưng các bên tham gia phải chấp nhận một thực tế rằng không thể dự báo được tất cả những kịch bản, tình huống bất ngờ trong tương lai, vì thế trong quá trình điều hành doanh nghiệp, hầu hết các quyền kiểm soát còn lại sẽ thuộc về người quản lý (Shleifer và Vishny, 1997). Điều này có thể dẫn đến rủi ro đạo đức khi BGĐ có xu hướng tận dụng quyền lực và lợi thế về thông tin trong mối quan hệ với nhà đầu tư để tối đa hóa lợi ích của bản thân thay vì tối đa hóa lợi ích chủ sở hữu.

2.3.1.2. Lý thuyết đại diện


Lý thuyết đại diện được phát triển bởi Jensen và Meckling (1976). Về mặt lý thuyết, các cổ đông là những người sở hữu thực sự tại các công ty cổ phần. Tuy nhiên số lượng cổ đông không giới hạn khiến việc điều hành trực tiếp doanh nghiệp của các chủ sở hữu trở nên không khả thi về mặt thực tế. Để giải quyết vấn đề này, các chủ sở hữu (người ủy thác) ký hợp đồng với một bên khác là BGĐ (người đại diện) nhằm thay mặt cho các cổ đông điều hành hoạt động của công ty. Lúc này, mối quan hệ


giữa người ủy thác - người đại diện ra đời, đồng thời phát sinh vấn đề người đại diện. BGĐ nắm trong tay quyền điều hành công ty, với tư cách là người được các cổ đông ủy quyền kiểm soát cùng kỳ vọng đem lại lợi ích chủ sở hữu. Trong khi đó, mặc dù là chủ sở hữu, song cổ đông không điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, người đại diện (BGĐ) có xu hướng hành động vì lợi ích cá nhân mà không vì lợi ích chung của doanh nghiệp, ví như khi đứng trước một quyết định kinh doanh, người đại diện có thể bị hấp dẫn bởi lợi ích bản thân mà ra quyết định phương hại tới lợi ích của doanh nghiệp. Mặt khác, sức hấp dẫn từ các khoản tiền thưởng, tiền lương và các lợi ích khác khiến cho BGĐ có động cơ điều chỉnh thông tin kế toán, nhằm che giấu các vấn đề về quản lý, hoặc làm đẹp BCTC do phần lớn các kế hoạch khen thưởng này dựa trên các con số kế toán. Những hành vi này làm suy giảm CLTT kế toán, ảnh hưởng tới quyền lợi của chủ sở hữu. Do đó các cổ đông cần kiểm soát hành vi của BGĐ nhằm đảm bảo họ thực hiện đúng nghĩa vụ với chủ sở hữu và cung cấp BCTC có chất lượng cao. Để làm được điều này, cổ đông phải chấp nhận chi phí đại diện (agency cost). Theo Jensen và Mecklink (1976) chi phí đại diện là tổng các chi phí: chi phí kiểm soát (Monitoring Expenditure), là chi phí được trả cho các kiểm soát viên nhằm báo động cho các cổ đông khi các nhà quản lý trục lợi cho bản thân họ quá nhiều; chi phí giao kèo (Bonding Expenditure) là chi phí nhằm ngăn ngừa những hậu quả xấu có thể xảy ra từ những hành động thiếu trung thực của các nhà quản lý và tổn thất lợi ích là những tổn thất xảy ra do sự khác biệt giữa những quyết định trên thực tế của các nhà quản lý và những quyết định nhằm tối đa hóa lợi ích cho các cổ đông. Các chi phí này nhằm duy trì hệ thống QTCT, giám sát hoạt động của BGĐ.

2.3.1.3. Lý thuyết tam giác gian lận


Trong số các lý thuyết có liên quan tới gian lận, lý thuyết tam giác gian lận của Cressey (1953) đã được thừa nhận rộng rãi và ứng dụng phổ biến. Donald R.Cressey được biết đến là nhà nghiên cứu tội phạm tại trường Đại học Indiana ở Mỹ. Ông đã nghiên cứu và chỉ ra rằng hành vi gian lận xảy ra khi hội đủ ba yếu tố Động cơ/Áp lực, Cơ hội và Thái độ/Sự hợp lý hóa.


Hình 2 1 Tam giác gian lận Nguồn Lý thuyết Tam giác gian lận Cressey 1953 Động cơ 1

Hình 2.1. Tam giác gian lận


Nguồn: Lý thuyết Tam giác gian lận (Cressey, 1953)


Động cơ/Áp lực: Cressey cho rằng gian lận xảy ra khi nhân viên, nhà quản lý hay tổ chức chịu áp lực về tài chính, tinh thần hay áp lực về kết quả hoạt động đối với bên thứ ba. Chẳng hạn như sự khó khăn về mặt tài chính, sự bất đồng trong các mối quan hệ với chủ doanh nghiệp hay áp lực khi chưa hoàn thành hoặc không hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,…

Cơ hội: Trong trường hợp này, yếu tố thứ nhất có thể được xem là tiền đề cho yếu tố Cơ hội. Theo đó, khi đã tồn tại động cơ hay áp lực cao kết hợp với cơ hội thuận lợi, doanh nghiệp có thể tiến hành hành vi gian lận. Theo Rasha và Andrew (2012), cơ hội được thể hiện một điểm yếu trong hệ thống kiểm soát, nơi mà nhân viên có khả năng khai thác tình huống để thực hiện hành vi lừa đảo. Theo Ewa và Udoayang (2012), sự vắng mặt hoặc kiểm soát không hiệu quả, thiếu giám sát hoặc phân chia nhiệm vụ không đầy đủ có thể dẫn tới cơ hội gian lận.

Thái độ/Khả năng hợp lý hóa: Yếu tố cuối cùng này có thể xem là điều kiện đủ để hành vi gian lận xảy ra. Không phải ai khi chịu áp lực cao và có cơ hội tốt đều thực hiện hành vi gian lận, mà điều này còn tùy thuộc vào thái độ và cá tính của từng cá nhân. Phần lớn những người có hành vi gian lận thường biện hộ cho thái độ phạm tội của mình, họ tự trấn an rằng chuyện này sẽ không bao giờ lặp lại. Nhưng nếu tiếp tục, người thực hiện sẽ không còn cảm thấy băn khoăn hay khó xử về hành vi mình đang làm, khi đó mọi việc diễn ra dễ dàng hơn, thậm chí thường xuyên hơn và họ cảm thấy hợp lý cũng như dễ chấp nhận hơn.


Lý thuyết Tam giác gian lận sau đó đã trở thành lý thuyết nền tảng trong các nghiên cứu về gian lận, thậm chí trở thành cơ sở xây dựng Chuẩn mực kiểm toán liên quan tới dấu hiệu nhận biết gian lận trên BCTC. Tương tự như các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp trên thế giới, Việt Nam cũng đã vận dụng lý thuyết tam giác gian lận để xây dựng các hướng dẫn áp dụng nhận biết đặc điểm gian lận trong Chuẩn mực kiểm toán 240- Trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan đến gian lận trong quá trình kiểm BCTC. Theo đó, gian lận, dù là lập BCTC gian lận hay biển thủ tài sản, đều có liên quan đến động cơ hoặc áp lực phải thực hiện hành vi gian lận, một cơ hội rõ ràng để thực hiện điều đó và việc hợp lý hoá hành vi gian lận.

Thông tin kế toán thiếu trung thực xảy ra khi BGĐ có động cơ hoặc gặp phải áp lực làm đẹp báo tài chính, hệ thống kiểm soát yếu kém và thái độ không tốt. Hay nói cách khác, doanh nghiệp có xu hướng cung cấp thông tin kế toán kém chất lượng khi gặp vấn đề về sức ép phải điều chỉnh báo cáo, khi hệ thống quản trị yếu kém, không giám sát được hành vi của BGĐ và BGĐ có vấn đề về đạo đức. Điều này đặt ra vấn đề cấp thiết của việc tăng cường hiệu quả QTCT nhằm ngăn chặn các cơ hội điều chỉnh TTKT.

2.3.1.4. Lý thuyết các bên có liên quan


Một số nghiên cứu cho rằng lý thuyết đại diện chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa cổ đông và BGĐ. Wearing và Wearing (2005) cho rằng điều này có thể dẫn tới việc nhà điều hành sẽ cố gắng thỏa mãn các cổ đông về mặt lợi nhuận mà hy sinh lợi ích trong dài hạn. Lý thuyết các bên liên quan nhấn mạnh tầm ảnh hưởng của các đối tượng có lợi ích trực tiếp lẫn gián tiếp tới hoạt động của đơn vị bao gồm cổ đông, Nhà nước, chủ nợ, nhà cung cấp, khách hàng và thậm chí cả công chúng nếu những thông tin về hoạt động của đơn vị có thể ảnh hưởng tới môi trường pháp lý, thị trường tài chính. Do đó, HĐQT không chỉ đại diện cho cổ đông mà còn cho tất cả các bên liên quan về mặt lợi ích, tránh khỏi sự phương hại đến từ thành phần nội bộ như BGĐ hoặc cổ đông kiểm soát

Với các bên liên quan, thông tin kế toán là cơ sở để đưa ra các quyết định như quyết định đầu tư của nhà đầu tư, quyết định cho vay hoặc thu hồi nợ của chủ nợ… Do đó, HĐQT cần phải đảm bảo cung cấp thông tin kế toán chất lượng cho các bên


liên quan. Điều này tạo ra lợi ích dài hạn đối với công ty, khi nhận được sự tin cậy từ các thành phần bên ngoài đơn vị. Trên góc độ thị trường tài chính, việc minh bạch TTKT ở mỗi công ty là nền tảng cho sự phát triển của thị trường, xây dựng lòng tin và thu hút nhà đầu tư, tạo sự phát triển bền vững.

Như vậy, các lý thuyết nền đã góp phần giải thích nguyên nhân của hiện tượng suy giảm CLTT kế toán, đồng thời cho thấy việc xây dựng hệ thống giám sát hoạt động của BGĐ hữu hiệu là giải pháp nâng cao CLTT kế toán để thông tin trở nên hữu ích đối với người sử dụng.

2.3.2. Tác động của quản trị công ty tới chất lượng thông tin kế toán


Luận án tiếp cận về QTCT trên khía cạnh nội bộ, theo đó, QTCT là các cơ chế nhằm đảm bảo quyền lợi của cổ đông và các bên liên quan. Như đã phân tích ở mục 2.3.2, xuất phát từ các nghiên cứu trước đó và các dữ liệu thu thập được, khi nghiên cứu tác động của QTCT tới CLTT kế toán, các khía cạnh quản trị công ty được đề cập tới trong Luận án bao gồm cấu trúc sở hữu, đặc điểm của HĐQT và đặc điểm của BKS

2.3.2.1. Tác động của cấu trúc sở hữu tới chất lượng thông tin kế toán


Cấu trúc sở hữu được hiểu là sự phân bổ vốn chủ sở hữu theo quyền, có mối tương quan với tỷ lệ vốn chủ sở hữu được nắm giữ bởi các chủ sở hữu. Với tỷ lệ sở hữu khác nhau, các cổ đông lớn với ưu thế về tỷ lệ sở hữu, có quyền tham gia vào hệ thống QTCT, chi phối vấn đề quản trị và tiếp cận thông tin. Lý thuyết bất cân xứng thông tin phản ánh mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa các cổ đông lớn và cổ đông thiểu số trong việc tiếp cận thông tin kế toán với lợi thế thuộc về cổ đông lớn. Tuy vậy, một số nghiên cứu lại cho rằng tỷ lệ sở hữu lớn khiến cổ đông lớn có động lực bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách gia tăng sự giám sát đối với hoạt động của doanh nghiệp thông qua việc tham gia vào công tác quản trị. Nhìn chung, các nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và CLTT kế toán có kết quả không thống nhất tùy thuộc vào đặc điểm nền kinh tế của từng quốc gia. Kế thừa từ các nghiên cứu trước đây và dữ liệu thu thập, luận án xem xét vấn đề về tác động của cấu trúc sở hữu tới CLTT kế toán tập trung trên ba khía cạnh: sở hữu Nhà nước, sở hữu của cổ đông tổ chức và sở hữu của BGĐ.


Tác động của sở hữu của Nhà nước tới chất lượng thông tin kế toán


Nhà nước là một chủ thể đặc biệt của nền kinh tế, vừa hoạt động theo quy luật thị trường, vừa thay mặt Chính phủ thực hiện vấn đề phúc lợi xã hội. Wang và Yung (2011) có cơ sở để tin rằng thông tin kế toán được cung cấp bởi các công ty có vốn Nhà nước có tính tin cậy thấp. Trước tiên, các cổ phần Nhà nước không có chủ sở hữu thực sự, hay nói cách khác, nhà quản trị tại các doanh nghiệp này không thực sự có quyền sở hữu, bởi vậy họ thiếu động cơ làm việc, quan liêu. Mặt khác, tại các doanh nghiệp có vốn Nhà nước, vấn đề người đại diện sẽ phát sinh do sự xung đột lợi ích từ cổ đông lớn là Nhà nước và các cổ đông thiểu số. Với sự tập trung sở hữu lớn, Nhà nước trong vai trò là đại cổ đông có quyền quyết định các vấn đề quan trọng hoặc đề cử giám đốc điều hành mà không vấp phải sự can thiệp từ các cổ đông thiểu số. Vì vậy mâu thuẫn từ vấn đề người đại diện kết hợp với sự quản lý thiếu chặt chẽ của hệ thống giám sát khiến cho nhà điều hành có rất nhiều thời cơ để thực hiện hành vi làm sai lệch BCTC nhằm che giấu các vấn đề của doanh nghiệp hoặc trục lợi cho bản thân. Bên cạnh đó, Shleifer và Vishny (1989) cho rằng quyền sở hữu tập trung thường thúc đẩy việc tự quản lý và mở rộng lợi ích kiểm soát của cá nhân, hay nói cách khác, các đơn vị Nhà nước quản lý tại các doanh nghiệp có xu hướng lạm quyền, hành xử vì lợi ích riêng hơn là tối đa hóa lợi ích của cổ đông bao gồm cả Chính phủ và cổ đông thiểu số trong trường hợp này. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu của Wang và Yung (2011) tại các doanh nghiệp Trung Quốc lại chứng minh điều ngược lại. Theo đó, Wang và Yung (2011) đã chỉ ra rằng mức độ sở hữu Nhà nước cao có khuynh hướng ngăn chặn hành vi điều chỉnh BCTC, nâng cao CLTT kế toán. Điều này được giải thích bởi các doanh nghiệp được Nhà nước rót vốn sẽ có khả năng được bảo hộ. Bên cạnh đó, ưu tiên của Chính phủ về chiến lược của công ty sẽ liên quan đến sự đánh đổi giữa việc theo đuổi lợi ích của cổ đông và các mục tiêu khác ví dụ như lợi ích cộng đồng. Vì vậy kết quả tài chính không phải là mục đích hàng đầu của đơn vị. Do đó, nhà điều hành không có áp lực đáng kể trong việc điều chỉnh, làm đẹp thông tin kế toán để khiến cổ đông hài lòng. Một nguyên nhân khác được đề cập tới là điều khoản có tính ràng buộc về mặt pháp lý từ phía Nhà nước khi rót vốn vào đơn vị có thể khiến cho BGĐ thận trọng hơn trong hành vi sửa đổi thông tin kế toán. Kết quả nghiên cứu này nhận được đồng thuận của Kao (2014) và từ một số nghiên cứu tại Việt Nam như Nguyễn Thu Hằng

Xem tất cả 206 trang.

Ngày đăng: 11/01/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí