Tiêu Chí Của Du Lịch Sinh Thái Dựa Vào Cộng Đồng

1.3. Tiêu chí của du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng

Theo UNWTO (2008) cho rằng những tiêu chí của một du lịch sinh thái cộng đồng đang hướng tới gồm có các tiêu chí sau:

- Tiêu chí 1: Người dân nên được tham gia vào quá trình lên kế hoạch và quản lý hoạt động du lịch tại cộng đồng.

- Tiêu chí 2: Hoạt động du lịch này phải mang lại lợi ích một cách công bằng cho cộng đồng.

- Tiêu chí 3: Hoạt động du lịch này nên bao gồm tất cả các thành viên của cộng đồng hơn chỉ là sự tham gia của một vài thành viên.

- Tiêu chí 4: Quan tâm đến sự bền vững của môi trường.

- Tiêu chí 5: Mọi hoạt động du lịch sinh thái cộng đồng phải tôn trọng nền văn hoá và các “cấu trúc xã hội” tại cộng đồng.

- Tiêu chí 6: Có hệ thống, phương pháp để giúp người trong cộng đồng có thể “vượt qua” những ảnh hưởng của những khách du lịch phương tây.

- Tiêu chí 7: Hoạt động du lịch thường được giữ ở quy mô nhỏ nhằm hạn chế tối đa những ảnh hưởng đến văn hoá và môi trường.

- Tiêu chí 8: Hướng dẫn tổng quan cho khách du lịch về cộng đồng để giúp họ có những hành động hợp lý trong quá trình du lịch.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

- Tiêu chí 9: Không yêu cầu người trong cộng đồng phải thực hiện những hoạt động trái với văn hoá, tôn giáo của họ.

- Tiêu chí 10: Không yêu cầu người dân trong cộng đồng tham gia vào các hoạt động du lịch nếu họ không muốn.

Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại vườn quốc gia Bến En - Thanh Hóa - 3

1.4. Nguyên tắc của du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng

Theo Võ Quế (2008) cho rằng các nguyên tắc để phát triển du lịch dựa vào cộng đồng bao gồm [16]:

- Cộng đồng được quyền tham gia thảo luận các kế hoạch, quy hoạch, thực hiện và quản lý, đầu tư và có thể trao quyền làm chủ cho cộng đồng.

- Phù hợp với khả năng của cộng đồng.

- Chia sẻ lợi ích từ du lịch cho cộng đồng.

- Xác lập quyền sở hữu và tham gia của cộng đồng đối với tài nguyên và văn hoá. Theo tổ chức WTO (2004), các nguyên tắc để phát triển du lịch cộng đồng cần phải dựa trên các nguyên tắc của du lịch bền vững.

- Sử dụng tối ưu nguồn môi trường, duy trì các tiến trình sinh thái học chủ yếu và giúp bảo tồn nguồn tự nhiên và hệ sinh thái được thừa hưởng.

- Khía cạnh xác thực nền văn hoá - xã hội của cộng đồng địa phương, đảm bảo họ đã xây dựng, kế thừa văn hoá và giá trí truyền thống, đồng thời góp phần vào sự hiểu biết và thông cảm đối với các nền văn hoá khác nhau.

- Đảm bảo sự vận hành nền kinh tế lâu dài ổn định, cung cấp các lợi ích kinh tế - xã hội đến tất cả những người có liên quan nhằm phân bổ công bằng.

1.5. Lịch sử nghiên cứu

* Trên thế giới

Hoạt động DLST là hoạt động thu hút được sự quan tâm chú ý không chỉ các nhà kinh tế - xã hội và chính trị đồng thời thu hút mọi tổ chức, thành phần kinh tế tham gia. Với các hoạt động liên quan trực tiếp và gián tiếp đến DLST đang ngày càng được quan tâm, chú ý.

Những năm nửa cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 của thế kỷ 20 du lịch sinh thái đã dần dần được định hình. Trên các diễn đàn, các cuộc bàn luận của thế giới về hình thức du lịch gắn liền với các hệ sinh thái tự nhiên bắt đầu được đề cập và chú ý.

Định nghĩa DLST chưa rõ ràng, nó thường được đề cập đến như: du lịch trách nhiệm, bền vững, bảo tồn… và thường được xếp vào nhóm du lịch mạo hiểm hoặc du lịch thiên nhiên.

Tác giả Phạm Trung Lương trong cuốn Du lịch sinh thái đã đề cập cho chúng ta có thể thấy buổi ban đầu này các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đi đầu và điển hình về lĩnh vực này là Ceballos -Lascurain, Buckley… Cùng rất nhiều các nghiên cứu lí luận và thực tiễn về DLST của các nhà khoa học, các tổ chức quan tâm đến lĩnh vực này như: Cater, Chalker, Dowling, Western, Linberg - Hawkis, Whelan, Wight, Weating, Duff, Cochrane Hiệp hội DLST, Quỹ bảo vệ động vật hoang dã

(WWF), Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN)… đã có nhiều công trình nghiên cứu và công bố những quan điểm, khái niệm về DLST, các bài học thực tiễn cũng như những hướng dẫn cho các nhà quản lí, tham gia hoạt động DLST như: Hiệp hội DLST đã xuất bản cuốn “DLST: Hướng dẫn cho các nhà lập kế hoạch - Chẩn đoán DLST và hướng dẫn quy hoạch”; Kreg Lindbeg: Các vấn đề trong quản lí DLST (1999); David Ardersen: Thiết kế các phương tiện phục vụ DLST (2000); Karrtrina Brandon: Những bước cơ bản ban đầu định hướng mục tiêu khuyến khích sự tham gia của dân địa phương vào dự án DLST (1998).

Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra những ấn phẩm hướng dẫn quy hoạch, quản lý du lịch và môi trường trong DLST của nhiều tác giả: Foster, Buckley, Dowling, Gunn… Các tổ chức quốc tế như IUCN, WWF … là những tài liệu bổ ích trong nghiên cứu về DLST và vận dụng vào thực tiễn đối với từng lãnh thổ, từng quốc gia, từng khu vực…

Chúng ta có thể thấy định nghĩa tương đối hoàn chỉnh đầu tiên về DLST do Hector Ceballas Lascurain đưa ra năm 1987: “Du lịch sinh thái là du lịch đến những cứu tham quan với ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hóa được khám phá” [9]. Từ định nghĩa này mở đầu cho những định nghĩa của thế giới về DLST, và có một cái nhìn toàn diện hơn, khái quát hơn về loại hình du lịch. Hiệp hội du lịch sinh thái quốc tế (TIES) định nghĩa DLST như sau: “Du lịch có trách nhiệm đến các khu vực tự nhiên bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi của người dân địa phương” [15].

“Du lịch sinh thái là hoạt động du lịch tiến vào những khu vực tự nhiên hầu như không bị ô nhiễm hoặc ít bị xáo trộn với mục tiêu đặc biệt: Nghiên cứu, thưởng ngoạn, trân trọng khung cảnh và muông thú hoang dã. Và các biểu thị văn hóa được khám phá trong các khu vực này” L.Hens (1998).

Với hiệp hội du lịch sinh thái của Mỹ có định nghĩa: “Du lịch sinh thái là du lịch có mục đích với các khu vực tự nhiên, hiểu biết về lịch sử, văn hóa và lịch sử tự nhiên của môi trường, không làm biến đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng

thời ta cón cơ hội để phát triển kinh tế, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi ích cho cộng đồng địa phương.”

Những khái niệm, những nghiên cứu trên là cái nhìn tổng quan của thế giới về DLST. Là những gì bản thân con người đang cố gắng hướng đến trong tương lai nhằm bảo vệ, phát triển các nguồn tài nguyên tự nhiên và giá trị văn hóa bản địa. Quản lý bền vững về môi trường; Có những diễn giải và giáo dục về môi trường; Đóng góp, nỗ lực trong việc bảo tồn và phát triển cộng đồng. Bên cạnh đó, xem xét định nghĩa về cộng đồng chúng ta thấy đây là một định nghĩa mang tính chất lý thuyết và thực hành xuất hiện từ khá lâu. Điểm mốc thời gian rõ nét nhất của khái niệm này vào những năm 40 của thế kỷ 20 tại các thuộc địa của Anh. Đến nay khái niệm cộng đồng được sử dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế - Xã hội và khoa học kỹ thuật.

Một cộng đồng được đề cập nó có nhiều điểm chung của một nhóm người sống tại một khu vực, một vùng địa lý. Trong khu vực đó, nhóm người có những mối quan hệ với nhau về mặt huyết thống, tôn giáo, cơ sở sinh sống… đó là những điểm chung gắn kết từng cá thể lại với nhau. Bao quát những điều này, Leith W.Sproule và Ary S.Suhand cho rằng: “Cộng đồng là một nhóm người, thường sinh sống trên cùng khu vực địa lý, tự xác định mình thuộc về cùng một nhóm. Những người trong cùng một cộng đồng thường có quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân và có thể thuộc cùng một nhóm tôn giáo, một tầng lớp chính trị” [15]. Tác giả Schmirk lại đưa ra định nghĩa về cộng đồng: “Cộng đồng là một tập hợp nhóm người chung địa bàn cư trú và có quyền sử dụng các tài nguyên tự nhiên ở địa phương”.

Chủ nghĩa Mác-Lenin cũng đề cập: Cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân, được quyết định bởi sự giống nhau về lợi ích, mục đích, các điều kiện tồn tại của các thành viên và hoạt động của những con người hợp thành cộng đồng đó, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất… sự gần gũi về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị và chuẩn mực, nền sản xuất và sự tương đồng về điều kiện sống cũng như các quan niệm chủ quan của họ về mục tiêu và các phương tiện hoạt động. Xuất phát từ loại hình du lịch làng bản từ những năm 70 của thế kỷ XX, từ các

quốc gia có hoạt động du lịch phát triển tại Châu Mỹ, châu Âu, châu Úc. Hoạt động du lịch dựa vào cộng đồng được tổ chức dựa trên chuyến đi của khách du lịch tham quan các làng bản. Đồng thời, tham gia tìm hiểu các nét văn hóa, môi trường hoạt động sống, phong tục tập quán của cư dân địa phương. Các hoạt động tham quan các vùng, địa điểm mang tính chất khám phá với những điều kiện hỗ trợ còn thiếu, vì vậy khách du lịch cần sự giúp đỡ của cư dân bản địa trong việc hỗ trợ các điều kiện ăn, ở… đây có thể nói là những hình thức sơ khai của việc hình thành nên hoạt động du lịch dựa vào cộng đồng.

Một số tên gọi thường dùng khi nói đến du lịch dựa vào cộng đồng:

- Du lịch dựa vào cộng đồng (Community based tourism)

- Phát triển cộng đồng dựa vào du lịch (Community development tourism)

- Du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng (Community based ecotourism)

- Phát triển du lịch có sự tham gia của cộng đồng (Community participation in tourism).

- Du lịch miền núi dựa vào cộng đồng (Community based mountain tourism) Mỗi tên có sự khác nhau nhưng cơ bản dựa trên những cơ sở giống hoặc tương đồng về phương pháp tổ chức, địa điểm, mục tiêu vị trí tổ chức phát triển du lịch và cộng đồng. Đồng thời cho ta thấy tầm quan trọng và đối tượng ưu tiên hàng đầu hướng tới trong mục tiêu hoạt động, định hướng phát triển tại mỗi địa điểm.

Hoạt động du lịch dựa vào cộng đồng hiện nay nhận được nhiều mối quan tâm từ các tổ chức phi chính phủ, các nhà hoạt động kinh tế, xã hội của các nước. Hoạt động du lịch dựa vào cộng đồng tạo điều kiện giúp đỡ các hoạt động bảo tồn, duy trì các bản sắc văn hóa, phong tục tập quán của các cộng đồng dân cư bản địa; trở thành một lĩnh vực mới trong ngành công nghiệp du lịch.

Du lịch cộng đồng (DLCĐ) dựa trên sự tò mò, mong muốn của du khách để tìm hiểu thêm về cuộc sống thường ngày của người dân từ các nền văn hóa khác nhau. Liên kết người dân thành thị đến với các vùng nông thôn để thay đổi không gian sống trong một khoảng thời gian nhất định.

Các dịch vụ, sản phẩm của DLCĐ được cung cấp tới khách du lịch bởi những cư dân trong địa bàn diễn ra hoạt động du lịch. Do đó chất lượng dịch vụ từ DLCĐ phụ thuộc hoàn toàn vào người cung cấp. Sản phẩm dịch vụ tốt luôn là kỳ vọng của du khách, đặc biệt là những sản phẩm độc đáo - điểm tạo ra sự khác biệt thu hút khách đối với các địa điểm du lịch khác.

Hoạt động DLCĐ là mối liên kết duy trì và phát huy vốn giá trị truyền thống của cư dân bản địa với những bản sắc riêng biệt, không bị hòa trộn những yếu tố của văn hóa phổ biến hiện đại. Nó là duy nhất, là riêng biệt và đơn sắc. Thông qua những hoạt động của mình, góp phần xây dựng và giáo dục ý thức bảo vệ những giá trị truyền thống tốt đẹp vốn có tại địa phương, giới thiệu những giá trị đó đến với thế giới bên ngoài. Nhưng đồng thời là quá trình phát triển các giá trị về kinh tế xã hội, đảm bảo sự tồn tại bền vững của địa phương nơi có hoạt động diễn ra.

Trong hoạt động DLST ngày nay được hiểu trên cơ sở sự quan tâm tới thiên nhiên và trách nhiệm xã hội. “Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên, là nơi bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương” (Hiệp hội DLST thế giới - Ecotourism society). Chính vì vậy để đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững, hoạt động DLST đã được tiếp cận trên một khía cạnh mới đó là phát triển DLST dựa vào cộng đồng. Cách tiếp cận này cũng có nhiều cách hiểu và đưa ra nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau. Tác giả Võ Quế trong cuốn “Du lịch cộng đồng - lý thuyết và vận dụng” đã giới thiệu những góc nhìn diễn giải một số nhà nghiên cứu, tác giả: Keith W.Sproule và Ary S.Suhand, Nicole Hausle và Wolffgang Strasdas, Viện nghiên cứu miền núi, quỹ bảo vệ thiên nhiên quốc tế về du lịch sinh thái:

Theo Keith W.Sproule và Ary S.Suhand: “Du lịch dựa vào cộng đồng là nói tới các tổ chức kinh doanh du lịch sinh thái do cộng đồng sở hữu và quản lý. Hơn nữa, du lịch sinh thái bao hàm ý một cộng đồng đang chăm lo đến tài nguyên thiên nhiên của mình để có thu nhập nhờ du lịch và đang sử dụng thu nhập đó để làm cho đời sống của cộng đồng mình được tốt lên. Nó thu hút công việc bảo tồn, công việc kinh doanh và sự phát triển cộng đồng” [15].

Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) định nghĩa: “Du lịch dựa vào cộng đồng là một hình thức du lịch mà cộng đồng địa phương làm chủ, tham gia vào quá trình phát triển và quản lý, phần lớn lợi ích sẽ thuộc về cộng đồng”. Viện nghiên cứu phát triển miền núi (Mountain Institues) nói rằng: “Du lịch dựa vào cộng đồng là hoạt động du lịch nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch tại điểm du lịch đón khách vì sự phát triển du lịch bền vững dài hạn. DLCĐ khuyến khích sự tham gia của người dân địa phương trong du lịch và có cơ chế tạo các cơ hội cho cộng đồng”. “Du lịch cộng đồng là một quá trình tương tác giữa cộng đồng (chủ) và khách du lịch mà sự tham gia có ý nghĩa của cả hai phía mang lại các lợi ích kinh tế, bảo tồn cho cộng đồng và môi trường địa phương”.

Nhà nghiên cứu Nicole Hausle và Wolffgang Strasdas đưa ra khái niệm: “Du lịch cộng đồng là một hình thái du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương”.

Học viện Du lịch Thái Lan đưa ra khái niệm: “Du lịch dựa vào cộng đồng là du lịch quan tâm đến các vấn đề môi trường, xã hội và bền vững văn hóa. Nó được quản lý và sở hữu bởi cộng đồng, với mục đích giúp khách du lịch tăng thêm nhận thức về cộng đồng và lối sống của địa phương” [23].

DLST dựa vào cộng đồng được đặt trong mối quan tâm và chú trọng trong các loại hình phát triển bền vững của ngành du lịch. Trong nghiên cứu thị trường khách DLST dựa vào cộng đồng quy mô lớn của Hiệp hội du lịch sinh thái thế giới trong 3 năm 2002 - 2004 chỉ ra khách du lịch ngày càng quan tâm, có nhu cầu tìm hiểu và học hỏi khi đi du lịch về các vấn đề văn hóa xã hội: văn hóa bản địa, sự kiện, nghệ thuật, tiếp xúc với người dân địa phương, ẩm thực bản địa hay nghỉ tại các cơ sở lưu trú quy mô nhỏ của cư dân. Bên cạnh đó là các tác động môi trường, trách nhiệm với môi trường của chính người cung cấp dịch vụ du lịch. Chính vì vậy khách du lịch có cơ hội được đi du lịch tại những địa điểm không bị ô nhiễm môi trường, không khí trong lành và tham quan các giá trị nguyên sơ, độc đáo về mặt tự nhiên, xã hội. Sự phát triển của DLST dựa vào cộng đồng mang lại lợi ích về nhiều

mặt cho đời sống kinh tế, xã hội. Thúc đẩy các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị tài nguyên tự nhiên, xã hội trên nền tảng phát triển bền vững.

* Tại Việt Nam

Hoạt động DLST tại Việt Nam đã xuất hiện trong những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây. Tuy mới xuất hiện nhưng ngày càng được quan tâm và chú ý bởi các nhà hoạt động du lịch, môi trường. DLST được xác định là một trong những tiềm năng, thế mạnh đặc thù của du lịch Việt Nam, được định hướng trong chiến lược phát triển ưu tiên của nền kinh tế. Điều này được thể hiện thông qua các hội nghị, hội thảo tổ chức chuyên đề nghiên cứu về hoạt động DLST: “Hội nghị Quốc tế về du lịch bền vững ở Việt Nam” do Tổng cục du lịch Việt Nam kết hợp với Quỹ Hanns Seidel (CHLB Đức) được tổ chức tại Huế, tháng 5/1997; Hội thảo “DLST với phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam” diễn ra tại Hà Nội, tháng 4/1998; Hội thảo “Xây dựng chiến lược Quốc gia về phát triển DLST tại Việt Nam” được tổ chức vào tháng 9/1999, tại Hà Nội do Tổng cục du lịch phối hợp với Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) và Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á và Thái Bình Dương (ESCAP). Tại đó các vấn đề về hoạt động DLST được phân tích và đánh giá chi tiết đưa ra những phương hướng hoạt động, phát triển trong tương lai.

Với một số các khái niệm du lịch sinh thái được đưa ra: “Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững” [13].

Trong hội thảo về “Xây dựng chiến lược phát triển du lịch Việt Nam” đã đưa ra định nghĩa về DLST: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng.”

Ngoài ra là các công trình nghiên cứu thu hút sự quan tâm chú ý của các học giả, nghiên cứu: Nguyễn Thị Hải, Phạm Trung Lương, Lê Văn Lanh, Võ Quế, Nguyễn Đình Hòe… Các bài báo, các hoạt động truyền thông về DLST, môi trường, các hoạt động nghiên cứu, thảo luận: Luận chứng kinh tế kĩ thuật khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Sơn (1992), nghiên cứu của Viện Điều tra Quy hoạch rừng

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí