DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ban quản lý | |
CĐĐP | Cộng đồng địa phương |
CHLB | Cộng hòa liên bang |
DLCĐ | Du lịch cộng đồng |
DLST | |
DLSTCĐ | Du lịch sinh thái cộng đồng |
ESCAP | Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á và Thái Bình Dương |
HDV | Hướng dẫn viên |
IIED | Viện Nghiên cứu và Phát triển quốc tế |
IUCN | Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới |
KBTTN | Khu bảo tồn thiên nhiên |
KT-XH | Kinh tế - Xã hội |
QL | Quốc lộ |
SWOT | Công cụ SWOT (phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức) |
TIES | Hiệp hội du lịch sinh thái quốc tế |
TN-XH | Tự nhiên - Xã hội |
UBND | Ủy ban nhân dân |
UNWTO | Tổ chức du lịch thế giới |
VPHC | Vi phạm hành chính |
VQG | Vườn quốc gia |
WTO | Tổ chức thương mại thế giới |
WWF | Quỹ bảo vệ động vật hoang dã |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại vườn quốc gia Bến En - Thanh Hóa - 1
- Tiêu Chí Của Du Lịch Sinh Thái Dựa Vào Cộng Đồng
- Một Số Bài Học Kinh Nghiệm Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Dựa Vào Cộng Đồng
- Phương Pháp Tham Vấn Ý Kiến Chuyên Gia
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch sinh thái ngày càng phổ biến trong đời sống của con người. Ở các nước phát triển nhu cầu du lịch đang ngày một tăng cao nhằm thỏa mãn sự hiểu biết của con người về thế giới. Tuy nhiên những hoạt động khai thác du lịch có những ảnh hưởng lớn đến môi trường và các hoạt động KT-XH.
Việt Nam được các nhà khoa học đánh giá là một trong những nước có tính đa dạng sinh học cao, có nhiều khu dự trữ sinh quyển, vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên. Không chỉ có hệ động thực vật đa dạng, cảnh quan đẹp, hoang sơ, Việt Nam còn có một nền văn hoá hết sức đặc sắc, là kết tinh của 54 dân tộc anh em qua hàng nghìn năm.
VQG Bến En được thành lập theo quyết định số 33-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ngày 27/01/1992, do Ủy ban Nhân dân Tỉnh Thanh Hóa trực tiếp quản lý và chủ quản đầu tư. Vườn Quốc Gia Bến En trải rộng trên 2 huyện Như Thanh và Như Xuân với tổng diện tích 16.634ha, trong đó khu bảo tồn nguồn gen là nơi “cấm địa” của vườn, ở đây thực vật rất phong phú với hàng trăm loài như các loài cây lim xanh rất đặc trưng… VQG Bến En là một trong những Vườn quốc gia tiêu biểu của Việt Nam và khu vực, có nguồn tài nguyên đa dạng sinh học phong phú, chứa đựng nhiều nguồn gen động thực vật quý hiếm và có văn hóa bản địa rất đặc sắc.
UBND tỉnh Thanh Hóa cũng như BQL VQG đã có những nỗ lực trong công tác bảo tồn. Tuy nhiên hiện nay VQG Bến En đang chịu những áp lực rất lớn từ các cộng đồng sống xung quanh cũng như các hoạt động phát triển trong khu vực. Cuộc sống của người dân ở vùng đệm VQG còn gặp nhiều khó khăn, họ chưa thực sự tham gia vào những nỗ lực bảo tồn chung của Vườn.
Trước các điều kiện khách quan này, việc nghiên cứu phát triển DLST tại VQG Bến En hiện nay là vấn đề cấp thiết. Việc tiến hành nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng là một hướng đi mới, không chỉ giải quyết hài hòa các vần đề về du lịch mà còn góp phần bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống của các dân tộc bản địa ở đây cũng như nâng cao đời sống dân cư, giảm áp lực lên tài nguyên trong Vườn.
Với những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Vườn quốc gia Bến En – Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng để góp phần phát triển kinh tế đồng thời bảo tồn các giá trị TN-XH, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Vườn quốc gia Bến En – Thanh Hóa. Trong đó:
- Đánh giá được tiềm năng, các yếu tố thúc đẩy cho sự phát triển loại hình du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng ở Bến En.
- Nêu lên được thực trạng phát triển loại hình du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng ở VQG Bến En.
- Đề xuất được các giải pháp phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng làm cơ sở tiền đề quan trọng cho công tác quy hoạch phát triển DLST ở VQG Bến En sau này.
3. Nội dung nghiên cứu
- Tổng quan về phát triển DLST trên phạm vi thế giới và ở Việt Nam: quan niệm, thực hiện, bài học kinh nghiệm.
- Đánh giá tổng quan thực trạng bảo vệ, quản lý và phát triển vùng đệm khu vực VQG Bến En.
- Đánh giá tổng quan một số điều kiện kinh tế - xã hội các địa phương liên quan tới phát triển DLST vườn Quốc gia Bến En.
- Điều tra, đánh giá về tài nguyên du lịch tự nhiên VQG Bến En: đặc điểm địa chất, địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, thuỷ văn, đa dạng sinh học, các loài đặc hữu, loài quý hiếm.
- Điều tra, đánh giá về tài nguyên du lịch: dân cư, dân tộc, các di tích lịch sử văn hoá, những nét văn hoá đặc trưng, những sản phẩm truyền thống.
- Điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch về cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật: giao thông, điện, cơ sở lưu trú, ăn uống.
- Kiến nghị về cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển du lịch sinh thái dựa cộng đồng: dự thảo, luật, đề án phát triển.
4. Bố cục luận văn
Bố cục luận văn gồm có:
- Mở đâu
- Chương 1: Tổng quan về du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
- Chương 2: Địa điểm, thời gian, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
- Kết quả và kiến nghị
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục
CHƯƠNG 1. DU LỊCH SINH THÁI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Du lịch sinh thái
DLST được quan niệm là một loại hình du lịch bền vững gắn với môi trường thiên nhiên [1]. Các khái niệm phổ biến về DLST mà các nhà nghiên cứu về du lịch đã đưa ra và được đa số các diễn đàn quốc tế về DLST thừa nhận như:
Ban đầu, có một khái niệm DLST tương đối đầy đủ bao hàm cả du lịch thiên nhiên lẫn du lịch văn hóa, do nhà bảo vệ môi trường người Mêhicô Hector Ceballos - Lascurain đưa ra: “Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu, tham quan vớí ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hóa được khám phá” [25, 29].
Năm 1993 Allen đưa ra một định nghĩa đề cập sâu sát đến lĩnh vực họat động trách nhiệm của du khách, đó là: “DLST được phân biệt với các loại hình du lịch thiên nhiên khác về mức độ giáo dục cao đối với môi trường và sinh thái, thông qua những hướng dẫn viên có nghiệp vụ lành nghề. DLST tạo ra mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên hoang dã đã cùng với ý thức giáo dục để biến bản thân khách du lịch thành những người đi đầu trong công tác bảo vệ môi trường. Phát triển DLST sẽ làm giảm thiểu tác động của khách du lịch đến văn hóa và môi trường đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài chính do du lịch mang lại và chú trọng đến những đóng góp tài chính cho việc bảo tồn thiên nhiên” [17, 25].
Đối với các tổ chức quốc tế, định nghĩa về DLST do Hiệp hội du lịch sinh thái quốc tế (TIES) đưa ra hiện được sử dụng khá phổ biến như sau:
“Du lịch sinh thái là việc đi lại của có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường và cải thiện được phúc lợi cho người dân địa phương” [17, 28].
Hình 1.1. Sơ đồ sự tiếp cận của phát triển bền vững là nền tảng của DLST [8]
Một số định nghĩa về DLST ở Việt Nam:
Luật Du lịch Việt Nam 2005, định nghĩa về DLST: “là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững” [25, 27].
Tổng cục Du lịch Việt Nam đưa ra một định nghĩa tương tự về DLST: “DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương” [26, 30].
Hay một dạng mở rộng khác của DLST về văn hóa bản địa: “Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhắm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống” [17, 22].
“DLST là hình thức du lịch thiên nhiên có mức độ giáo dục cao về sinh thái và môi trường, có tác động tích cực đến việc bảo vệ môi trường và văn hóa, đảm bảo mang lại các lợi ích về tài chính cho cộng đồng địa phương và có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn” [17, 24].
“DLST là một loại hình du lịch lấy các hệ sinh thái đặc thù, tự nhiên làm đối tượng để phục vụ cho những khách du lịch yêu thiên nhiên, du ngoạn, thưởng thức những cảnh quan hay nghiên cứu về các hệ sinh thái. Đó cũng là hình thức kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế du lịch với giới thiệu về những cảnh đẹp
của quốc gia cũng như giáo dục tuyên truyền và bảo vệ, phát triển môi trường và tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững” [25, 26].
Nhìn chung các khái niệm về DLST đang sử dụng tại Việt Nam đều có sự thống nhất trên quan điểm về nội dung đề cập là: thiên nhiên, bản sắc văn hóa, trách nhiệm và lợi ích của cộng đồng, và phát triển bền vững, tuy nhiên còn đề cập chung chung và chưa toàn diện.
1.1.2. Du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
Theo Tiến sỹ Võ Quế cho rằng “Du lịch dựa vào cộng đồng là phương thức phát triển du lịch trong đó cộng đồng dân cư tổ chức cung cấp các dịch vụ để phát triển du lịch, đồng thời tham gia bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường, đồng thời cộng đồng được hưởng quyền lợi về vật chất và tinh thần từ phát triển du lịch và bảo tồn tự nhiên” [16].
DLST dựa vào cộng đồng là một dạng DLST trong điều kiện cộng đồng địa phương có thực quyền và tham gia vào quá trình phát triển và quản lý DLST, phần lớn lợi ích thuộc về họ. So sánh với DLST, theo Viện Nghiên cứu và Phát triển quốc tế (IIED), DLST dựa vào cộng đồng đề cập một cách rõ ràng hơn các hoạt động du lịch hay các tổ chức kinh doanh dựa vào cộng đồng địa phương, diễn ra trên chính mảnh đất của họ, dựa vào những đặc trưng và sức hút về tự nhiên và văn hóa của họ. Nếu cộng đồng bị tách ra khỏi tài nguyên thiên nhiên, ví dụ tách biệt với các hoạt động du lịch trong VQG hay khu bảo tồn thiên nhiên, thì dù họ có ở cận kề với các khu vực này, họ cũng khó có thể tự mình phát triển du lịch nếu mảnh đất mà họ sống không có gì đặc biệt.
Bên cạch đó ta có thể tham khảo thêm một số khái niệm khác như: theo nhà nghiên cứu Nicole Hausle và Wollfgang Strasdas (2009): “Du lịch sinh thái cộng đồng là một hình thái du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương”.
Còn theo tổ chức Respondsible Ecological Social Tours (1997) thì du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng là “phương thức tổ chức du lịch đề cao về môi
trường, văn hóa xã hội. Du lịch sinh thái do cộng đồng sở hữu và quản lý, vì cộng đồng và cho phép khách du lịch nâng cao nhận thức và học hỏi về cộng đồng, về cuộc sống đời thường của họ”.
Qua các khái niệm có thể nhận thấy vẫn có sự khác nhau giữa DLST cộng đồng và DLST dựa vào cộng đồng. Đó chính là mực độ tham gia của cộng đồng vào phát triển du lịch. Trong đó mức độ tham gia của cộng đồng trong DLSTCĐ cao hơn so với DLST dựa vào cộng đồng. Trong DLSTCĐ thì cộng đồng là chủ thể chủ động tổ chức, cung cấp các dịch vụ, chủ động quảng bá và là đối tác của các doanh nghiệp, tổ chức; Đối với loại hình DLST dựa vào cộng đồng tuy cộng đồng đã tham gia vào sự phát triển du lịch ở mức độ khá cao nhưng vẫn chưa nắm quyền hoàn toàn, cộng đồng có quyền tham gia thảo luận các kế hoạch, quy hoạch, thực hiện và quản lý, đầu tư nhưng không được tự ý quyết định. DLST dựa vào cộng đồng là loại hình thích hợp nhất để phát triển tại khu vực nghiên cứu vì nó vừa đảm bảo được phát triển đời sống của cộng đồng dân cư tại đây, vừa đảm bảo được mục tiêu bảo tồn.
Ý tưởng đằng sau vế “dựa vào cộng đồng” của chiến lược môi trường là tạo cơ hội trao quyền cho cộng đồng, tăng cường sự tham gia của họ trong việc ra quyết định, nhưng cũng chỉ đơn giản là những điều này sẽ khuyến khích sự tham gia từ bản thân cộng đồng. Như vậy, du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng chính là nét tinh túy của du lịch sinh thái và du lịch bền vững. Du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng nhấn mạnh vào cả ba yếu tố là môi trường, du lịch và cộng đồng.
1.2. Điều kiện hình thành và phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
- Điều kiện tiềm năng về tài nguyên môi trường tự nhiên và nhân văn có ý nghĩa quyết định đến phát triển du lịch sinh thái cộng đồng.
- Điều kiện yếu tố cộng đồng dân cư. Cần có sự tự nguyện tham gia của cộng đồng.
- Điều kiện có thị trường khách trong nước và quốc tế.
- Điều kiện về cơ chế chính sách hợp lý.
- Sự hỗ trợ, giúp đỡ của chính phủ, tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước.