Hiện Trạng Chăn Nuôi Và Phát Triển Kinh Tế Trang Trại Ở Vùng Đệm

- Nước ngầm: Là kho dự trữ nước điều tiết cho các dòng chảy về mùa khô, phụ thuộc vào độ dày phong hóa và lượng mưa hàng năm. Qua khảo sát cho thấy một số khu vực chỉ cần khoan 1 - 2m đã có nước, khu vực sâu nhất 7 - 8m, mức độ chênh lệch mực nước ngầm trong năm lớn 1 - 2m.

3.2. Tiền năng để phát triển DLSTCĐ tại VQG Bến En

Với các điều kiện tự nhiên thuận lợi, kết hợp với sự đa dạng sinh học cao cùng nét đặc sắc về văn hóa của các cộng đồng dân tộc đang sinh sống tại đây. VQG Bến En có tiềm năng lớn để phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng.

3.2.1. Tiềm năng về tài nguyên nhân văn

a) Dân cư

* Dân số trong toàn vùng

Vườn Quốc gia Bến En nằm trên 2 huyện Như Thanh và Như Xuân bao gồm 13 xã và 2 thị trấn (cả vùng lõi và vùng đệm). Theo số liệu từ niên giám thống kê 2 huyện năm 2011, kết hợp số liệu thu thập tại các xã, dân số trong toàn vùng hiện nay là 12.369 hộ, 56.143 nhân khẩu, trong đó nam 28.064người (chiếm 49,98%), nữ 28.079 người (chiếm 50,01%) tổng nhân khẩu, cụ thể tại bảng 3.3 [2]:

Bảng 3.3. Thống kê dân số trong khu vực VQG Bến En


Hộ GĐ

Nhân khẩu

Nam

N

Hải Vân

744

3.720

1.845

1.875

Hải Long

872

3765

1.770

1.995

Xuân Thái

862

3.655

1.870

1.785

Tân Bình

647

2.583

1.273

1.310

Bình Lương

683

3.076

1.580

1.496

Xuân Hòa

674

2.935

1528

1.407

Xuân Quỳ

478

2.193

1.123

1.070

Hóa Quỳ

1.020

5.012

2.527

2.485

Xuân Bình

1.389

5.850

2.900

2.950

Yên Lễ

513

2.157

1.084

1.073

TT Yên Cát

810

3.729

1.886

1.843

Xuân Phúc

714

3.428

1.770

1.658

Phúc Đường

406

1.911

953

958

Xuân Khang

1.443

6.664

3.313

3.351

TT Bến Sung

1.114

5.465

2.642

2.823

TỔNG

12.369

56.143

28064

28079

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại vườn quốc gia Bến En - Thanh Hóa - 6

Nguồn: do phòng chuyên môn của UBND huyện Như xuân, UBND huyện Như thanh, các xã trong vùng đệm Vườn quốc gia Bến En cung cấp [2].

Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên trên toàn vùng là 0,93%, trong đó tỷ lệ tăng dân số tự nhiên thấp nhất ở các xã Hải Vân, Xuân Quỳ (0,8%), các xã có tỷ lệ tăng cao như Tân Bình (1,5%), Xuân Thái (1,17%).

Phân bố dân số Dân số bình quân toàn vùng là 95 người/km2, khu vực đông

nhất ở 2 thị trấn TT Bến Sung (1.137 người/km2) vàTT Yên Cát (779 người/km2), thấp nhất ở các xã Xuân Hòa (25 người/km2), Bình Lương (42 người/km2).

* Dân số trong vùng lõi

Hiện tại vùng lõi VQG Bến En vẫn còn người dân thuộc 9 thôn sinh sống thuộc 3 xã: Tân Bình; Xuân Quỳ; Hóa Quỳ với mật độ dân số khá đông, gồm 440 hộ với 1.813 nhân khẩu. Trong đó xã có số dân đông nhất Tân Bình 1.111 người trên 274 hộ, xã Xuân Quỳ 495 người trên 75 hộ, xã Hóa Quỳ 207 người trên 58 hộ [2]. Chi tiết các xã được thể hiện tại bảng 3.4.

Bảng 3.4. Thống kê dân số các thôn trong vùng lõi


TT

Thôn

Số hộ

Số nhân khẩu


1


Tân Bình

Làng Lung

49

200

Sơn Thủy

45

199

Thanh Bình

42

185

Sơn Bình

63

236

Đức Bình

47

186

Roọc Nái

28

105


2


Xuân Quỳ

Tân Thành

60

275

Xuân Thành

48

220

3

Hóa Quỳ

Xuân Đàm

58

207

Tổng cộng

9

440

1.813

Nguồn: do phòng chuyên môn của UBND huyện Như xuân, UBND huyện Như thanh, các xã trong vùng đệm Vườn quốc gia Bến En cung cấp [2].

Với 1.813 nhân khẩu, 440 hộ đây là một áp lực rất lớn đến tài nguyên của Vườn như: Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm; người dân vén đất rừng lấy đất canh tác; khai thác gỗ củi; các hoạt động đã làm ảnh hưởng tới tài nguyên của Vườn. Đây là vấn đề đòi hỏi cần sớm có phương án di dời người dân ra khỏi vùng lõi của Vườn hoặc phương án cắt đất cho người dân để ổn định cuộc sống.

* Dân tộc

Trong vùng lõi của vườn Quốc gia có sự đa dạng về các dân tộc thiểu số, cụ thể như sau:

- Dân tộc Kinh: 26.027 Người chiếm 51,01%.

- Dân tộc Thái: 10.096 Người chiếm 17,98%.

- Dân tộc Mường: 10.513 Người chiếm 18,73%.

- Dân tộc khác: 6.897 Người chiếm 12,28%.

* Lao động

Cơ cấu lao động

Theo số liệu thống kê năm 2011 tổng lao động trong vùng có 31.541 lao động, chiếm 56,16% dân số. Trong đó lao động nam 16.006 người (chiếm 50,75%), lao động nữ 15.535 người (49,25%), lực lượng lao động khối sản xuất chiếm tới 83,80%. Số lao động này chủ yếu là lao động thủ công phần lớn chưa qua đào tạo.

Nhìn chung tuy có lực lượng lao động dồi dào nhưng chủ yếu là lao động thủ công trong lĩnh vực nông nghiệp, các hoạt động mang tính thời vụ và phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là khai thác tài nguyên rừng, điều này làm ảnh hưởng tới công tác quản lý bảo vệ của Vườn. Tuy nhiên, tại đây tập trung số lượng lớn người đồng bào dân tộc như: Thái, Mường,… với nhiều nét văn hóa độc đáo. Chính những nét độc đáo đó là cơ sở để thu hút khách du lịch đến tìm hiểu, khám phá và thưởng thức.

b) Tình hình kinh tế

* Sản xuất nông nghiệp trên toàn vùng

i. Trồng trọt

Cây lương thực: Cây trồng chủ yếu như: lúa nước, ngô, khoai, sắn,...quá trình canh tác còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, chưa áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, do vậy năng suất còn thấp điển hình như: Lúa từ 4 đến 4,5 tấn/ha; ngô 3,3 tấn/ha; cây khoai 5,8 tấn /ha. Tổng sản lượng cây lương thực cây có hạt năm 2011 đạt 14.647,7 tấn, bình quân lương thực trên đầu người đạt 290kg/người/năm (trong đó lúa đạt 261 kg/người/năm), với năng suất như vậy không đảm bảo được an ninh lương thực cho người dân trong vùng.

Cây công nghiệp ngắn ngày: Cây công nghiệp ngắn ngày được trồng tại khu vực VQG Bến En chủ yếu là cây mía; cao su, diện tích chủ yếu tại khu vực vùng đệm, và một phần đất vùng lõi VQG, năng suất mía bình quân đạt khoảng 41,2 tấn/ha. Trong những năm vừa qua diện tích trồng mía được mở rộng phục vụ nhu cầu nguyên liệu nhà máy đường Lam Sơn, điều này dẫn đến không ít diện tích đất rừng của Vườn bị xâm lấn phục vụ trồng cây công nghiệp.

ii. Chăn nuôi

Kết quả điều tra tại vùng đệm về tình hình chăn nuôi và phát triển kinh tế trang trại được tổng hợp trong bảng 3.5.

Bảng 3.5. Hiện trạng chăn nuôi và phát triển kinh tế trang trại ở vùng đệm


TT

Diễn giải

ĐVT

Tổng cộng

Trung bình

I

Chăn nuôi




A

Số lượng gia súc

Con

20.822

1.735

1

Trâu

Con

7.300

608

2

Con

1.741

145

3

Lợn

Con

9.631

803

4

Gia súc khác

Con

3.000

250

B

Số lượng gia cầm

Con

117.849

9.821

II

Mô hình trang trại

ĐVT

Tổng cộng

Địa điểm triển khai

1

Nuôi lợn rừng

Trang trại

1

xã Xuân Khang

2

Nuôi Hươu sao

Trang trại

1

xã Xuân Khang

3

Nuôi nhím

Trang trại

1

xã Xuân Khang

4

Chăn nuôi tổng hợp

Trang trại

1

xã Xuân Thái

5

Trang trại nông nghiệp

Trang trại

2

xã Xuân Thái

6

Trang trại Vườn ao chuồng

Trang trại

1

xã Xuân Hòa

Nguồn: do phòng chuyên môn của UBND huyện Như xuân, UBND huyện Như thanh, các xã trong vùng đệm Vườn quốc gia Bến En cung cấp [2].

Bảng 3.5 cho thấy, tổng số gia súc trong toàn vùng là 20.822 con các loại, trung bình đạt 1,9 con gia súc/hộ. Trong đó:

- Trâu: 7.300 con (TB 0,7 con/hộ);

- Bò: 1.741 con (TB 0,2 con/hộ);

- Lợn 9.631 con (TB 0,9 con/hộ);

- Các loại gia súc khác (chủ yếu là dê): 3.000 con (TB 0,3 con/hộ). Tổng số lượng gia cầm là: 117.849 con (TB 11 con/hộ).

Bảng cũng cho thấy trong toàn vùng chỉ có 7 mô hình trang trại ở xã Xuân Khang, Xuân Thái – huyện Như Thanh và Xuân Hòa – huyện Như Xuân, còn lại 9 xã khác không có mô hình nào. Điều này chứng tỏ người dân trong vùng chưa chú trọng đến việc phát triển chăn nuôi, chưa đầu tư cho sản xuất. Đồng thời cũng phản ánh thực trạng là khu vực vùng đệm chưa nhận được sự quan tâm đầu tư của địa phương cũng như của các chương trình, dự án trong và ngoài nước để phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống cho nhân dân trong vùng.

Sản uất l m nghiệp

i. Trồng rừng

Công tác trồng rừng trên địa bàn được thực hiện nhiều năm nay. Những năm gần đây được sự đầu tư của các Dự án 327, dự án 661, Dự án trồng rừng sản xuất,… diện tích rừng trồng được nâng lên rõ rệt. Đến nay, toàn vùng đã có 1.254 ha rừng trồng, gồm các loài cây Keo, Mỡ, Luồng,… ngoài ra, trong khu vực vùng đệm VQG Bến En trên địa bàn các xã diện tích trồng cao su đến nay bắt đầu cho thu hoạch mủ. Nhìn chung, các chương trình trồng rừng đã góp phần làm tăng diện tích rừng trong khu vực, đặc biệt là khu vực vùng đệm. Đồng thời cũng mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân từ đó góp phần vào việc ổn định đời sống trong khu

vực.

ii. Giao đất giao rừng

Công tác giao đất theo nghị định 02/CP được tiến hành nhiều năm nay. Do vậy, cho đến nay phần lớn diện tích đất rừng đã có chủ, đây là điều kiện thuận lợi cho công tác bảo vệ rừng, thúc đẩy người dân đầu tư cho các hoạt động sản xuất lâm nghiệp,… Tuy nhiên, công tác giao đất tồn tại một số bất cập, ranh giới giao đất không rõ ràng, vẫn còn tranh chấp đất đai, sử dụng không đúng quy hoạch, đúng mục đích trên đất được giao.

iii. Khai thác và chế biến lâm sản

Hiện tại trên địa bàn khu vực VQG Bến En hiện có 8 cơ sở chế biến lâm sản được cấp phép hoạt động. Trong đó, nguyên liệu chủ yếu là gỗ tròn được khai thác từ rừng trồng trong khu vực và nhập từ nơi khác, sản phẩm chủ yếu của các cơ sở này là gỗ xẽ, ván sàn, cốt pha và đồ mộc gia dụng,…

Diện tích khai thác chủ yếu là rừng trồng, hàng năm khai thác trong khu vực khoảng 1.500m3, 50.000 ster củi, 22.000 cây Luồng, 100.000 cây tre nứa khác. Ngoài ra, đối với khu vực vùng lõi vẫn còn hiện tượng người dân khai thác trái phép gỗ, củi từ rừng tự nhiện, điều này làm ảnh hưởng tới tài nguyên rừng của Vườn.

Đứng trước tình hình trên, mặc dù là đơn vị mới thành lập, thực trạng khó khăn về nhiều mặt, nhưng để bảo vệ và xây dựng rừng có hiệu quả, Vườn Quốc gia Bến En đã xác định nhiệm vụ quan trọng là công tác bảo vệ rừng, tổ chức di dân một số nơi ở khu nghiêm ngặt ra khỏi ranh giới Vườn, tăng cường biện pháp hành chính kết hợp tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng về công tác bảo vệ rừng, bảo tồn đan dạng sinh học, bảo vệ thiên nhiên môi trường thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, họp cụm thôn bản, ký kết hương ước về công tác bảo vệ rừng tới hộ dân. Cùng với công việc trên, vườn đã tranh thủ một số các chương trình sự án bảo tồn, dự án phát triển dân sinh kinh tế vùng đệm, chuyển giao kỹ thuật mới và sản xuất, phát triển trang trại rừng, chú trọng các xã đặc biệt khó khăn, tuyên truyền công tác lâm nghiệp xã hội,… nhằm ổn định sản xuất cải thiện đời sống cho nhân dân trong vùng.

Hiện nay, đang xây dựng dự án khả thi theo kế hoạch của Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn về phát triển Kinh tế - Xã hội ở các xã vùng đệm.

Các chương trình nghiên cứu khoa học ở vườn Quốc gia Bến En từ khi thành lập vườn đến nay còn ít, mới tập trung vào chương trình điều tra nghiên cứu về đa dạng sinh học, thông qua việc hợp tác với các tổ chức khoa học trong và ngoài nước. Các nội dung khác vườn đã tiến hành một số chương trình điều tra nghiên cứu như: Điều tra cơ bản khu hệ động thực vật Bến En; xây dựng bộ danh lục tiêu bản động thực vật [12]; Góp phần nghiên cứu đề xuất các giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học vườn Quốc gia Bến En (1998 - 2000); Xây dựng vườn thực vật (từ năm 1995 đến nay).

Nhìn chung các chương trình điều tra nghiên cứu mới chỉ là bước đầu, song cũng đã góp phần đáng kể vào công tác bảo tồn, bảo vệ tài nghiên rừng, các kết quả đạt được là cơ sở và tiền đề cho các chương trình điều tra nghiên cứu tiếp theo.

Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học ở vườn Quốc gia Bến En còn rất lớn, kể cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, đây là vấn đề cấp thiếp cần tiếp tục quan tâm nhằm phục vụ tốt cho công tác bảo vệ tài nguyên môi trường.

c) Giá trị văn hóa nhân văn trong phát triển DLSTCĐ ở VQG Bến En

Cộng đồng các dân tộc ở VQG Bến En hiện vẫn giữ được bản sắc văn hoá dân tộc của mình như trang phục, lễ hội, các hoạt động đời sống sinh hoạt hàng ngày như đan lát đồ dùng thủ công, dệt thổ cẩm, thêu, lễ cấp sắc, múa đâm đuống, múa xòe, uống rượu hoẵng, cơm lam… Đó là những nét văn hóa đặc trưng của vùng. Đây là thế mạnh để VQG Bến En có thể phát triển loại hình du lịch kết nối cộng đồng. Quan trọng hơn vườn Quốc gia nằm trong thế chân kiềng của tổng thể quan du lịch Sầm Sơn – Bến En – Thành nhà Hồ.

Tại VQG Bến En có các đồng bào dân tộc thiểu số là người Thái , Mương và Thổ. Họ sống trong làng rải rác trong vùng đệm và vùng lõi của VQG. Hoạt động chính của những dân tộc sinh sống trong VQG chủ yếu dựa vào nông nghiệp tự nhiên trên đất dốc, đào hố gieo hạt, chăn thả gia súc trong rừng. Phương pháp phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng là xóa đói giảm nghèo có hiệu quả, bảo tồn các hệ sinh thái VQG Bến En.

Ở vườn quốc gia Bến En, dân tộc Thái có văn hóa rượu cần vẫn còn được giữ gìn và lưu truyền cho tới nay. Trong thời đại rượu tây, bia hơi lên ngôi thì một chum rượu cần vẫn đủ sức làm lay động lòng người. Mỗi khi có khách quý tới nhà, có lễ hội người dân tộc Thái đưa rượu ra thiết đãi. Rượu cần ngon không chỉ được chưng cất từ những thứ tinh túy của núi rừng mà còn ngon ở văn hóa thưởng thức. Nếu bạn có dịp đến đây vào đúng ngày hội làng, có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên trước những lễ nghi, phong tục độc đáo trong văn hóa người Thái đến nay vẫn được giữ gần như nguyên vẹn. Trong đó không thể thiếu được những hũ rượu cần để sẵn ống nứa, mời gọi du khách sau mỗi lần thưởng ngoạn một màn hát múa vui mắt vui tai. Mâm cỗ linh đình gồm cá đồ, thịt nướng, cơm lam thơm hương nếp đồng, làm sao thiếu chum rượu cần cho ngày vui thêm ý nghĩa.

Còn người Thổ sinh sống ở vườn Quốc gia Bến En có tục “ngủ mái” đây là một nét văn hóa lạ của dân tộc này. Tục “ngủ mái” có từ xa xưa, người Thổ sống gần gũi, thoải mái nên chuyện yêu đương cũng vậy. Khi đến tuổi lập gia đình, con gái con trai có thể tự do thoải mái tìm hiểu nhau. Khi đã ưng cái bụng con gái có thể đưa con trai về nhà và ngủ chung với nhau.Ngoài ra, lễ cưới của người Thổ cũng có nhiều nghi lễ độc đáo, riêng biệt. Lễ cưới được tổ chức sau mùa thu hoạch gần tết nguyên đán. Lễ cưới hỏi của người Thổ khá phức tạp, cầu kỳ. Đầu tiên, nhà trai phải tiến hành làm lễ dạm ngõ. Trong lễ dạm ngõ nhà trai chuẩn bị một chai rượu, sáu miếng trầu, sáu miếng cau để tới nói chuyện với nhà gái. Những người đại diện cho gia đình nhà trai tới thưa chuyện với nhà gái gồm bố đẻ, ông chú và một người có uy tín của dòng họ.

Sau 3 ngày từ hôm dạm ngõ, nếu nhà gái không mang lễ vật tới trả thì họ đã đồng ý kết mối thông gia, cho đôi trẻ đến với nhau. Nhà trai sẽ tiến hành bước tiếp theo là ăn hỏi, lễ ăn hỏi phải có rượu, trầu cau, trà, thuốc bánh kẹo, hoa quả. Sau lễ ăn hỏi là lễ thăm nhà, lễ này gồm trầu cau, rượu các loại bánh gai, bánh rán, bánh nổ, bánh thính,… để tạo mối tình thông gia thêm khăng khiết. Khi đã hoàn thành các lễ trên, chàng rể tương lai phải tới nhà gái ở rể lao động định kỳ mỗi tháng một vài ngày, cho tới khi nào nhà gái đồng ý mới thôi. Nếu nhà trai có điều kiện không

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí