Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Nguyên Tắc Thận Trọng Của Doanh Nghiệp



Ưu điểm

Nhược điểm

Các nghiên cứu

thực nghiệm


doanh nghiệp cho

mẫu nghiên cứu

trong kế toán


Phương pháp giá trị

Có thể đo lường

Phương pháp bỏ qua

(Ahmed &

dồn tích âm (Givoly

mức độ thực hiện

tác động của chi phí

Duellman, 2007);

và Hayn, 2000)

nguyên tắc thận

không liên quan đến

(Klein &


trọng cho từng

tiền (chi phí khấu

Marquardt, 2006),


doanh nghiệp cụ thể

hao)

(Beatty, Ke, &


Không phụ thuộc vào

Phần giá trị tích lũy

Petroni, 2002),


thông tin thị trường

của dồn tích phải

(Hille, 2011)


của doanh nghiệp

được tập hợp trong



Đây là Phương pháp

khoảng thời gian dài



đo lường thận trọng

từ một năm cơ sở cụ



không có điều kiện

thể, gây khó khăn cho




việc lựa chọn năm cơ




sở cho khoảng thời




gian nghiên cứu




Chưa xem xét tới tính




đặc thù của doanh




nghiệp như quy mô




hay đòn bẩy tài chính


Phương pháp dòng

Sử dụng chỉ tiêu

Dòng tiền không phải

(Krishnan, 2007),

tiền (Ball và

dòng tiền từ hoạt

là một biến số đại diện

(Lara, Osma, &

Shivakumar, 2005)

động kinh doanh để

ổn định cho luồng

Penalva, 2009)


đo lường luồng

thông tin trên thị



thông tin tích cực và

trường



tiêu cực trên thị

Chỉ sử dụng dòng tiền



trường => có thể đo

từ hoạt động kinh



lường thận trọng cho

doanh mà bỏ qua ảnh



cả công ty không

hưởng của dòng tiền



niêm yết

từ hoạt động không




kinh doanh




Chưa xem xét tới tính




đặc thù của doanh




nghiệp như quy mô




hay đòn bẩy tài chính


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

Nghiên cứu mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng trong kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 7



Ưu điểm

Nhược điểm

Các nghiên cứu

thực nghiệm

Phương pháp mở

Là phương pháp mở


(Affes & Sardouk,

rộng Basu (Khan

rộng của Basu, tính

2016); Lê Tuấn

và Watts, 2009)

được điểm rơi C

Bách (2018),


Score – giá trị của

(Khalilov & Osma,


mức độ thực hiện

2020)


nguyên tắc thận



trọng kế toán cho



từng công ty



Xem xét tới tính đặc



thù của doanh



nghiệp như quy mô



hay đòn bẩy tài



chính



Được sử dụng rộng



rãi trong các nghiên



cứu hiện tại


Nguồn: Thống kê của tác giả

2.4. Nhân tố ảnh hưởng tới nguyên tắc thận trọng của doanh nghiệp

Từ tổng quan công trình nghiên cứu ở chương 1, trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam, luận án tập trung vào hai nhóm biến: các biến thuộc đặc điểm quản lý - kiểm soát gồm đặc điểm Hội đồng quản trị (HĐQT), kiểm toán độc lập và nhóm các biến thuộc đặc điểm cơ cấu sở hữu của công ty. Luận án dưới đây trình bày chi tiết từng nhân tố ảnh hưởng riêng lẻ.

2.4.1. Các nhân tố thuộc đặc điểm quản lý - kiểm soát

2.4.1.1. Quy mô của HĐQT

HĐQT được thành lập nhằm mục tiêu giám sát và theo dõi hoạt động của người quản lý, đảm bảo họ sẽ hành động vì lợi ích của cổ đông. Sự hiệu quả của hoạt động giám sát này phụ thuộc một phần vào quy mô của HĐQT, nói cách khác phụ thuộc vào số lượng thành viên trong HĐQT. Theo Nghị định 71/2017/NĐ-CP, số lượng thành viên HĐQT của công ty đại chúng được quy định tối thiểu là 3 người và tối đa là 11 người. (Lipton và Lorsch, 1992) chỉ ra rằng quy mô HĐQT không nên quá nhỏ cũng không nên quá lớn, tối ưu nên ở mức 7-9 thành viên. Trên thực tế ở nhiều quốc gia, quy mô HĐQT có thể lên tới 31 thành viên. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng quy mô càng


lớn thì chức năng kiểm soát sẽ càng hiệu quả hơn, vì công ty có cơ hội đa dạng hóa và tiếp cận nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau để giải quyết vấn đề của công ty. Beekes, Pope và Young, (2004); Lim (2010) trong nghiên cứu của mình tìm thấy tác động tích cực của quy mô HĐQT đến những dấu hiệu thực hiện nguyên tắc thận trọng kế toán.

Tuy nhiên cũng có quan điểm trái chiều khi HĐQT tăng quy mô thì vấn đề về hợp tác, giao tiếp giữa các thành viên sẽ xuất hiện. Jensen (1993) cho rằng quy mô HĐQT nhỏ hơn thì tính hiệu quả cao hơn bởi khả năng và mức độ thực thi nhiệm vụ của HĐQT sẽ được đồng nhất hơn so với HĐQT có quy mô lớn, từ đó góp phần giải quyết được mâu thuẫn đại diện. Admed và Henry (2012) và Boussaid và cộng sự (2015) cũng tìm thấy tác động ngược chiều của quy mô HĐQT đối với mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng. Lý do là bởi với những HĐQT có quy mô lớn, sự mâu thuẫn giữa các thành viên, bất đồng ý kiến trong các quyết định quan trọng sẽ xảy ra. Vijayakumaran (2019) cho rằng do thiếu thời gian trong việc bàn bạc ra quyết định, HĐQT với quy mô lớn thường chỉ phụ thuộc vào 1 hoặc 2 thành viên chính, có tiếng nói và vị trí quan trọng. Nói cách khác, vấn đề hợp tác, các chi phí để phối hợp và vấn đề người ăn theo sẽ xuất hiện. Chính vì vậy, quy mô HĐQT càng nhỏ thể hiện dấu hiệu mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng tại các doanh nghiệp càng tăng.

Tại Việt Nam, Nguyễn Hà Linh (2017) nghiên cứu thấy có mối quan hệ ngược chiều giữa quy mô HĐQT và điều chỉnh lợi nhuận, (Nguyen, Doan, & Nguyen, 2020) tìm thấy mối quan hệ nghịch chiều giữa quy mô HĐQT tới chi phí đại diện và Nguyễn Thị Bích Thủy (2019) không tìm thấy mối quan hệ thống kê giữa quy mô HĐQT và mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng trong kế toán. Dựa vào những tổng quan trên, cùng với đặc điểm thị trường chứng khoán Việt Nam, luận án cho rằng khi quy mô HĐQT tăng lên vượt quá một điểm nhất định thì sẽ phát sinh thêm những điểm bất lợi, thậm chí là vượt qua cả những lợi ích và hội đồng với quy mô lớn đem lại. Ở một vài nghiên cứu, các tác giả xây dựng dạng hàm tác động hình chữ U cho biến này. Tuy nhiên xét thấy theo quy định, quy mô HĐQT tại các công ty Việt Nam ở mức độ trung bình (Nghị định 71/2017/NĐ-CP, quy định tối đa thành viên trong HĐQT là 11 người, tối thiểu là 3), không quá cao so với các quốc gia khác trên thế giới; luận án dự đoán quy mô HĐQT sẽ chỉ mang tác động ngược chiều đối với mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng tại thị trường Việt Nam.

2.4.1.2. Tỷ lệ thành viên HĐQT không điều hành

Theo lý thuyết đại diện, sự độc lập của HĐQT là một nhân tố nhằm giám sát hiệu quả hơn hoạt động của Ban giám đốc, nhằm mục tiêu giảm thiểu chi phí đại diện.


Sự độc lập này thể hiện qua tỷ lệ thành viên HĐQT không điều hành - những người không có quan hệ vật chất với công ty, kể cả các công ty con, công ty liên kết. Theo Nghị định 71/2017/NĐ-CP, một phần ba tổng số thành viên HĐQT phải là thành viên độc lập.

Trên thực tế, thành viên HĐQT điều hành phụ trách các nhiệm vụ kinh doanh, sản xuất, bán hàng nên họ không thể thực hiện đầy đủ vai trò giám sát Ban giám đốc. Vì vậy một cơ chế gồm các thành viên HĐQT độc lập không tham gia điều hành là cần thiết, sẽ giúp kiểm soát vấn đề đại diện trong công ty. Fama và Jensen (1983) cho rằng với tính bất cân xứng thông tin, các thành viên HĐQT có thể tiếp cận nhiều thông tin hơn nên dễ dàng cấu kết với nhà quản trị để chống lại cổ đông bằng cách tác động lên phương pháp và cách thức ghi nhận kế toán. Do đó, HĐQT bao gồm thành viên bên ngoài sẽ tăng khả năng giám sát để loại bỏ được vấn đề này. Beekes, Pope, và Young, (2004) hay Mohammed, Ahmed, và Ji (2017) đều tìm thấy mối quan hệ thuận chiều giữa mức độ độc lập của HĐQT và mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng trong kế toán. Nói cách khác HĐQT càng độc lập thì doanh nghiệp đó có dấu hiệu thể nguyên tắc thận trọng trong kế toán càng cao.

Tại các công ty niêm yết ở Việt Nam, sự độc lập thực sự của HĐQT có thể còn nhiều vấn đề cần bàn luận do các công ty trên thực tế có xu hướng chỉ đối phó với các quy định pháp lý chứ chưa chú tâm xây dựng một HĐQT độc lập thực sự. Vì vậy, một vài nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ giữa sự độc lập HĐQT và việc thực hiện nguyên tắc thận trọng kế toán (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2019); hay Bùi Văn Dương và Ngô Hoàng Điệp (2017) cũng cho thấy không có mối quan hệ giữa số lượng thành viên HĐQT không điều hành và việc điều chỉnh lợi nhuận.

2.4.1.3. Sự kiêm nhiệm CEO và chủ tịch HĐQT

Về mặt lý thuyết, việc xác định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn của CEO (Tổng giám đốc) và Chủ tịch HĐQT là tiêu chí quan trọng góp phần giúp doanh nghiệp hoạch định công việc và chiến lược hoạt động của doanh nghiệp. Một số ý kiến cho rằng việc tách bạch hai chức danh này sẽ khiến cho bộ máy quản trị trở nên cồng kềnh không cần thiết, nhân viên khó khăn trong việc tuân theo các chỉ thị do sự không thống nhất từ mệnh lệnh truyền từ trên xuống. Đặc biệt với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự đồng bộ hai vị trí này sẽ giảm thiểu chi phí khi phải thuê thêm nhân sự chất lượng cao từ bên ngoài về làm CEO, cũng như các chi phí kiểm soát phát sinh trong quá trình giám sát hoạt động của CEO. Mặt khác, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nếu doanh nghiệp không cân nhắc lựa chọn việc phân tách CEO và chủ tịch HĐQT thì rất khó để đảm bảo tính khách quan trong việc đánh giá mực độ hiệu quả hoạt động của


Ban điều hành khi Chủ tịch HĐQT là người được giao nhiệm vụ quản trị doanh nghiệp, đôi khi cũng không có đủ kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực quản trị này. Jensen và Meckling (1993); Fama và Jensen (1983) cho rằng khi chủ tịch HĐQT vừa là người hoạch định chiến lược lại vừa là người giám sát, triển khai các quyết định này sẽ làm tăng chi phí đại diện. (Bhagat & Back, 2001) cũng đồng thuận và chỉ ra rằng mức độ độc lập của hai vị trí này có tương quan ngược chiều với Chi phí đại diện, từ đó góp phần khiến mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng kế toán tốt hơn. Dechow & Schrand (2010) cũng cho rằng khi chủ tịch HĐQT kiêm chức năng của giám đốc điều hành CEO thì sẽ làm giảm tính hữu hiệu của việc giám sát từ HĐQT, cũng như loại bỏ cơ chế giám sát của các giám sát độc lập lên giám đốc điều hành. Điều này có thể dẫn tới xu hướng che giấu thông tin bất lợi của công ty đối với cổ động, hay thậm chí gia tăng hành vi điều chỉnh lợi nhuận từ các hoạt động kế toán (Nguyễn Hà Linh, 2017).

Trên thực tế, tại Việt Nam, bắt đầu từ thông tư 121/2012 cũng đã có quy định rằng ‘Chủ tịch Hội đồng quản trị không được kiêm nhiệm chức danh Giám đốc (Tổng giám đốc) điều hành trừ khi việc kiêm nhiệm này được phê chuẩn hàng năm tại Đại hội đồng cổ đông thường niên’. Và đến khi Nghị định 71/2017/NĐ-CP ra đời thì kể từ ngày 1/8/2020, Chủ tịch Hội đồng quản trị không được kiêm nhiệm chức danh Giám đốc (Tổng giám đốc) của cùng một công ty đại chúng để góp phần tách biệt chức năng giám sát và điều hành. Chính vì cơ quan lập pháp đã có nhận thức những tác động tiêu cực của việc kiêm nhiệm hai chức danh này, do đó trên thực tế đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhiều năm gần đây, việc kiêm nhiệm này không còn tồn tại phổ biến. Điều này cũng có thể là nguyên nhân dẫn tới việc nhiều nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy mối quan hệ giữa biến kiêm nhiệm và các chỉ tiêu khác có mối quan hệ tương đối thấp.

Luận án quyết định vẫn giữ biến kiêm nhiệm của CEO và Chủ tịch Hội đồng quản trị làm nhân tố tác động tới mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng trong kế toán để kiếm chứng về mặt lý thuyết.

2.4.1.4. Quy mô của ban kiểm soát

Ban kiểm soát trong công ty cổ phần là đơn vị có chức năng giám sát hội đồng quản trị, tổng giám đốc và các giám đốc trong hoạt động điều hành và quản lý công ty, từ đó đảm bảo sự thận trọng và minh bạch trong báo cáo tình hình kinh doanh, tài chính. Tại các công ty cổ phần ở Việt Nam, Ban kiểm soát do đại hội đồng cổ đông bầu ra trong khi Ủy ban kiểm toán do công ty tự nguyện thành lập, và là một tiểu ban


thuộc hội đồng quản trị. Đối với loại hình công ty cổ phần, do mâu thuẫn đối kháng nhau về lợi ích nên việc thành lập Ban kiểm soát trong công ty cổ phần sẽ đảm bảo quản lý, điều hành hoạt động tài chính, kế toán của công ty. Theo Nghị định 71/2017/NĐ-CP, Ban kiểm soát được thành lập từ 3-5 thành viên, trong đó Trưởng Ban kiểm soát phải là kế toán viên hoặc kiểm toán viên chuyên nghiệp, và phải làm việc chuyên trách tại công ty. Trong nhiều nghiên cứu trên thế giới, số lượng thành viên của Ban kiểm soát càng lớn thì khả năng bao quát và giám sát tốt hơn, khiến hệ thống kế toán của doanh nghiệp được hạch toán phù hợp và mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng cũng cao hơn. Tuy nhiên theo nghiên cứu của Abbott, Parker và Peter (2004) lại không tìm thấy bằng chứng về mối liên hệ giữa quy mô Ban kiểm soát và mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng trong kế toán với lý do số lượng thành viên nhiều thì chức năng giám sát chưa chắc đã hiệu quả hơn mà còn phụ thuộc vào tính độc lập, năng lực, trách nhiệm và mức độ thực hiện nhiệm vụ của ban kiểm soát.

2.4.1.5. Số chuyên gia tài chính trong ban kiểm soát

Theo Abbott, Parker, và Peter (2004), tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa số lượng chuyên gia tài chính trong ban kiểm soát với mức độ sai phạm trên báo cáo tài chính và hệ thống hạch toán kế toán. Theo đó, tỷ lệ chuyên gia tài chính trong ban kiểm soát của các công ty không có sai phạm sẽ cao hơn ở các công ty có sai phạm.

Theo Nghị định 71/2017/NĐ-CP, Ban kiểm soát có từ 3-5 thành viên, trong đó có ít nhất một thành viên là kế toán viên hoặc kiểm toán viên; đồng thời trưởng ban kiểm soát phải là người có chuyên môn về kế toán nhằm đảm bảo năng lực giám sát tình hình tài chính của công ty. Madah và Abdul (2016) nghiên cứu thị trường Malaysia và thấy rằng sự thiếu hụt chuyên gia tài chính, kế toán trong ban kiểm soát sẽ dẫn đến sự yếu kém trong hệ thống kiểm soát nội bộ doanh nghiệp, từ đó những sai sót trọng yếu khó phát hiện ra, các nguyên tắc trong kế toán như thận trọng có thể bị phá vỡ. Theo Nguyễn Thị Bích Thủy (2019) tìm thấy mối quan hệ thuận chiều giữa số chuyên gia tài chính trong ban kiểm soát và mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng trong kế toán với mức ý nghĩa 10%. Nghiên cứu cho rằng thành viên ban kiểm soát có chuyên môn kế toán tài chính sẽ đảm bảo tính hiệu quả và chất lượng thông tin kế toán hữu dụng, họ có đủ kỹ năng và kinh nghiệm để áp dụng các chuẩn mực Báo cáo tài chính và chính sách kế toán cho công ty. Một số ý kiến cho rằng việc thành lập ban kiểm soát với nhiều chuyên gia tài chính chưa đủ quan trọng bằng tính độc lập của ban


kiểm soát cũng như trách nhiệm và đạo đức của các thành viên khi thực hiện công việc giám sát của mình.

Thực tế tại Việt Nam, mặc dù có quy định về chuyên môn của ban kiểm soát do Bộ Tài chính và Chính phủ đưa ra; tuy nhiên vai trò giám sát của ban kiểm soát chưa thực sự được nhấn mạnh và coi trọng trong các công ty. Hơn nữa, mặc dù thành viên ban kiểm soát theo pháp luật có đầy đủ chuyên môn kế toán, tài chính nhưng những thành viên này có thể được lựa chọn ra từ nhân viên trong công ty, do đó chịu sự chi phối của Ban giám đốc, từ đó khó để thực hiện khách quan công việc của mình. Điều này có thể cản trở yếu tố chuyên môn của ban kiểm soát. Vì vậy, nhân tố này cũng cần được nghiên cứu thêm đặc biệt trong thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay.

2.4.1.6. Các công ty được kiểm toán bởi Big 4

Để đảm bảo được nguyên tắc thận trọng trong kế toán, chất lượng kiểm toán độc lập cũng là yếu tố cần thiết, đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa, phát hiện những sai phạm trong hệ thống kế toán hay trong các báo cáo tài chính. Theo Farber (2005), việc sử dụng dịch vụ kiểm toán của một trong các công ty Big4 sẽ đem lại chất lượng kiểm toán tốt hơn, làm giảm thiểu những sai phạm khi hạch toán kế toán và báo cáo tài chính. Nghiên cứu chỉ ra rằng công ty có sai sót trong báo cáo tài chính thường do các công ty kiểm toán không phải Big 4 thực hiện. Nói cách khác việc được kiểm toán của Big 4 sẽ gây áp lực và khiến cho mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng trong kế toán của các công ty cao hơn. Fathi (2013) cho rằng khi được kiểm toán bởi công ty Big 4 thì chất lượng thông tin kế toán sẽ trung thực và hữu ích hơn bởi tính chuyên nghiệp, danh tiếng của các công ty này. Ngược lại, nghiên cứu của Nguyễn Công Phương và Lâm Xuân Đào (2016) lại không tìm thấy mối liên hệ giữa kiểm toán độc lập và sai sót trong báo cáo tài chính. Thông thường, khi đo lường biến này, các nghiên cứu sẽ sử dụng biến giả với giá trị 1 nếu các công ty được kiểm toán bởi Big 4 và mang giá trị 0 nếu không phải là Big 4.

2.4.1.7. Số lượng thành viên nữ trong hội đồng quản trị

Theo lý thuyết chiều văn hóa của Hofstede, giới tính là một trong những khía cạnh văn hóa sẽ tác động tới việc kinh doanh. Nam giới đại diện cho phong cách ưu tiên thành tích, phần thưởng vật chất cho thành công và sự quyết đoán. Ngược lại, nữ giới lại tượng trưng cho sự hợp tác, khiêm tốn và an toàn. Các lý thuyết về vốn con người, lý thuyết lãnh đạo,… chỉ ra rằng nữ giới hỗ trợ và duy trì các mối quan hệ tốt hơn nam giới. Trong khi nam giới luôn tự tin thái quá thì phụ nữ lại siêng năng, có tính


bảo thủ và không thích rủi ro như nam giới. Những đặc điểm này có thể ảnh hưởng tới chiến lược và quyết định tài chính khi họ giữ vị trí quan trọng trong công ty.

Những nghiên cứu liên quan đến giới tính tác động tới việc ra quyết định của nhà quản lý có thể kể tới như Adam, Gray và Nowlan (2010), Huse và Solberg (2006). Kết quả cho thấy rằng các thành viên nữ trong HĐQT khiến việc giám sát hoạt động của các giám đốc điều hành hiệu quả hơn bởi nữ giới có tư duy độc lập tốt và khả năng khéo léo trong giao tiếp, thúc đẩy việc thảo luận cũng như công việc cởi mở hơn. Hơn nữa phụ nữ chú trọng sự an toàn, không thích kiện tụng và rủi ro mất danh tiếng, do đó khi làm việc, nữ giới sẽ thận trọng và lựa chọn cơ chế giám sát chặt chẽ hơn so với nam giới. Do vậy các quan điểm cho rằng tỷ lệ nữ giới cao trong HĐQT sẽ khiến mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng cao hơn trong kế toán. Stewart và O'Leary (2007), Krishnan và Parsons (2008) cũng cho rằng các nữ lãnh đạo có xu hướng tuân thủ các nguyên tắc và giữ gìn đạo đức hơn so với nam giới. Họ không muốn mạo hiểm hay đối mặt với rủi ro rài chính và sự tín nhiệm của bản thuân; trong khi nam giới do đặc tính thích thành tích, những phần thưởng vật chất, hơn nữa lại quyết đoán nên có xu hướng dễ dàng chấp nhận những hành vi vi phạm các quy định để đạt mục tiêu cá nhân hơn.

Tại Việt Nam, bình đẳng giới và phân biệt đối xử trong môi trường công việc vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. Tỷ lệ nữ nắm giữ các vị trí cao trong các công ty tương đối thấp so với tỷ lệ nam lãnh đạo. Vì vậy đây cũng là một biến số thích hợp nên được đưa vào mô hình để đo lường.

Xem tất cả 176 trang.

Ngày đăng: 14/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí