ty có cơ hội tăng trưởng cao trên thị trường sẽ muốn tránh những phí tổn chính trị, hay còn gọi là phí tổn phi hợp đồng. Ví dụ như khi công ty có lãi cao hơn, công đoàn hay người lao động có thể sẽ gây sức ép yêu cầu được tăng lương. Như vậy ban lãnh đạo có thể sử dụng kế toán như công cụ để đảm bảo lợi nhuận được ghi nhận thận trọng, để làm giảm những phí tổn này. Nói cách khác các công ty có xu hướng tăng trưởng cao sẽ nâng cao mức thận trọng kế toán của mình.
2.5. Mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng trong kế toán và giá cổ phiếu của công ty
Có thể thấy việc nghiên cứu tác động của việc thực hiện thận trọng trong kế toán tới công ty (tích cực và tiêu cực) đang rất được quan tâm. Tuy nhiên đây là vấn đề rất lớn, liên quan tới cả các thông tin tài chính và phi tài chính, vì vậy đề tài chỉ xem xét thêm mối quan hệ giữa mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng trong kế toán tới giá cổ phiếu của doanh nghiệp niêm yết như một phần gia tăng để hỗ trợ trong việc đưa ra các gợi ý cho các nhà quản lý và bên liên quan.
2.5.1. Một số khái niệm về cổ phiếu và giá cổ phiếu của các công ty niêm yết
2.5.1.1. Cổ phiếu
Theo luật doanh nghiệp 2020, cổ phiếu là chứng nhận quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần. Mỗi cổ phiếu sẽ có giá trị bằng nhau, được công ty cổ phần phát hành ra với mục tiêu gọi vốn. Như vậy người sở hữu cổ phiếu là chủ sở hữu của công ty cổ phần đó và có trách nhiệm về mặt pháp lý trong phạm vị phần vốn mà mình đã góp. Cổ đông sẽ không được rút vốn khỏi công ty cổ phần (yêu cầu trả lại phần cổ phiếu) mà sẽ được chia cổ tức theo tỷ lệ vốn góp theo những quy định của công ty.
Theo luật doanh nghiệp 2020, có hai loại cổ phiếu: cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi với những đặc tính khác nhau; trong đó cổ phiếu phổ thông là loại phổ biến nhất và không thể chuyển đổi thành cổ phiếu ưu đãi.
Thông thường, cổ tức của cổ phiếu phổ thông phụ thuộc vào kết quả kinh doanh, do đó có tính không ổn định. Khi doanh nghiệp hoạt động tốt, cổ đông phổ thông có thể được hưởng lợi nhuận cao hơn so với các loại cổ phiếu ưu đãi có lãi suất cố định. Tuy nhiên, khi công ty hoạt động thua lỗ, cổ tức của cổ phiếu thường có thể rất thấp hoặc không có. Khi công ty rơi vào tình trạng phá sản, giải thể, cổ đông phổ thông là người cuối cùng nhận được giá trị của tài sản thanh lý (sau cổ đông ưu đãi và các chủ nợ). Chính vì vậy rủi ro của cổ phiếu cao hơn khoản nợ cho vay, từ đó kỳ vọng lợi nhuận càng lớn. Trên thị trường thứ cấp, giá cổ phiếu biến động rất nhanh
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Pháp Giá Trị Dồn Tích Âm (Accrual Based Measures)
- Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Nguyên Tắc Thận Trọng Của Doanh Nghiệp
- Mức Độ Sở Hữu Của Người Quản Lý Công Ty
- Giả Thuyết Về Các Nhân Tố Liên Quan Tới Quản Lý - Kiểm Soát
- Mô Hình Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Mức Độ Thực Hiện Nguyên Tắc Thận Trọng Trong Kế Toán Của Công Ty Niêm Yết Trên Ttck Việt Nam
- Mô Tả Và Cách Thức Đo Lường Các Biến Trong Lớp Mô Hình Nghiên Cứu 1
Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.
nhạy, do nhiều nhân tố nhưng cơ bản nhất là do kỳ vọng của nhà đầu tư khi nhìn vào hiệu quả kinh doanh và giá thị trường của công ty.
2.5.1.2. Các loại giá cổ phiếu
Giá cổ phiếu của công ty niêm yết gồm có: mệnh giá cổ phiếu, giá trị sổ sách và giá trị thị trường cổ phiếu
Mệnh giá cổ phiếu là giá trị được ghi trên mỗi cổ phiếu, thể hiện giá trị được ấn định ban đầu. Khi một công ty gọi vốn số vốn cần gọi được chia thàn nhiều phần nhỏ với giá trị bằng nhau, chính là giá trị mệnh giá.
Mệnh giá được sử dụng làm cơ sở để ghi nhận giá trị sổ sách kế toán của công ty. Mệnh giá cổ phiếu không có giá trị thực tế với nhà đầu tư sau khi đã mua cổ phiếu, nên nó không ảnh hưởng đến giá trị thị trường của cổ phiếu đó. Mệnh giá được dùng để tính giá trị vốn cổ phần và cổ tức bằng tiền trên mỗi cổ phiếu.
Giá trị sổ sách: với trường hợp công ty chỉ phát hành cổ phiếu phổ thông thì giá trị sổ sách của một cổ phiếu thường được xác định bằng cách cách lấy vốn chủ sở hữu hoặc tổng giá trị tài sản thuần của công ty chia cho tổng số cổ phiếu đang lưu hành.
Với trường hợp công ty phát hành cả cổ phiếu ưu đãi bên cạnh cổ phiếu phổ thông thì cần lấy tổng giá trị tài sản thuần trừ đi phần giá trị thuộc cổ phiếu ưu đãi, sau đó chia cho số cổ phiếu phổ thông đang lưu hành.
Với việc xem xét giá trị sổ sách, các cổ đông có thể thấy được giá trị tăng thêm của cổ phiếu thường sau một thời gian công ty hoạt động so với số vốn góp ban đầu.
Giá thị trường: Giá thị trường của cổ phiếu là giá trị thị trường hiện tại (thị giá) của cổ phiếu, được thể hiện trong giao dịch cuối cùng được ghi nhận. Giá thị trường không phải do công ty phát hành ấn định mà được xác định bởi giá thống nhất giữa người bán cổ phiếu và giá cao nhất mà người mua sẵn sàng trả để mua nó. Như vậy đây là quan hệ cung - cầu trên thị trường, và giá thị trường của cổ phiếu có thể phụ thuộc vào hình ảnh của công ty, hoạt động kinh doanh hoặc kỳ vọng về hoạt động kinh doanh, thông tin về ngành nghề, quy mô hay những thông tin về nền kinh tế vĩ mô,...
Giá thị trường của cổ phiếu sẽ thay đổi liên tục trong ngày giao dịch, vì vậy các công ty sẽ quan tâm tới giá đóng cửa (giá cuối phiên giao dịch trong ngày) để đánh giá tình hình biến động của cổ phiếu. Tuy nhiên giá đóng cửa mới chỉ thể hiện giá trị tiền của giá giao dịch cuối cùng trước khi thị trường đóng cửa. Một số hành động của công ty sau khi thị trường đóng cửa thị trường (như điều chỉnh giá sau đợt chia tách cổ phiếu, điều chỉnh sau chia cổ tức, do phát hành quyền mua cổ phiếu) cũng ảnh hưởng tới giá cổ phiếu. Chính vì thế, để phản ánh chính xác giá trị thực sự của cổ phiếu đó, nhà đầu tư sẽ dựa vào giá đóng cửa điều chỉnh.
Như vậy giá đóng cửa điều chính được dùng để sửa đổi giá đóng cửa cho một số cổ phiếu để phản ánh chính xác giá trị cổ phiếu đó sau một số hoạt động của công ty. Trong luận án này, tác giả sẽ sử dụng giá đóng cửa điều chỉnh để tính toán các chỉ tiêu liên quan trong những chương sau.
2.5.2. Mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng trong kế toán và giá cổ phiếu
Việc xem xét thêm mối quan hệ của mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng trong kế toán và giá cổ phiếu giúp luận án có thêm cái nhìn về ích lợi cũng như hạn chế của thận trọng trong kế toán, từ đó hỗ trợ trong việc đưa ra một số các khuyến nghị ở những chương sau. Tuy nhiên, khi bàn về ích lợi của thận trọng trong kế toán, các nghiên cứu cần xem xét đặc tính thận trọng trong thông tin kế toán trong mối quan hệ với hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý, từ đó sẽ tác động tới doanh nghiệp theo các cách khác nhau. Dấu hiệu chính để nhận biết nguyên tắc thận trọng thể hiện ở tốc độ phản ứng với những dấu hiệu thông tin tích cực và tiêu cực từ thị trường (thông tin tích cực về tăng doanh thu hay tăng tài sản,… chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng chắc chắn, còn thông tin tiêu cực về xuất hiện chi phí sẽ ghi nhận ngay khi nhận thấy có khả năng xảy ra) sẽ giúp nhà đầu tư dự đoán và kiểm soát được rủi ro tài chính, cảnh báo những hao tổn hay bất lợi cho người sử dụng thông tin. Hơn nữa, lợi ích của việc thực hiện nguyên tắc thận trọng trong kế toán có thể kể đến như: khả năng tiếp cận các nguồn vốn huy động trên thị trường, từ đó tăng cơ hội đầu tư cho doanh nghiệp; góp phần tăng giá trị doanh nghiệp trong những điều kiện về thị trường và tỷ lệ sở hữu nhất định (Watts, Zuo, & Balakrishnan, 2016), giúp hạn chế ảnh hưởng của các giao dịch nội gián trong doanh nghiệp (Khalilov và Osma, 2018). Bên cạnh đó, cũng có một số nghiên cứu chỉ ra những hạn chế trong việc thực hiện thận trọng trong doanh nghiệp: tác động tiêu cực tới chất lượng lợi nhuận (Ismail và Elbolok, 2011); làm giảm sự linh hoạt trong các quyết định tài chính, dẫn đến việc hạn chế các chính sách trả cổ tức hay xu hướng giữ nhiều tiền hơn cho mục đích phòng ngừa rủi ro, đặc biệt là với các công ty nhỏ và vừa. Như vậy thận trọng trong kế toán có cả những tác động tích cực và tiêu cực đối với doanh nghiệp.
Theo Basu (1997), nguyên tắc thận trọng kế toán phát sinh từ nhu cầu ký kết hợp đồng giao dịch với những người sử dụng báo cáo tài chính bên ngoài doanh nghiệp, từ đó các nhà khoa học đưa ra hai lý do để thận trọng trong kế toán sẽ làm tăng giá cổ phiếu của công ty: một là nguyên tắc thận trọng giúp tăng khả năng vay nợ của công ty với những điều khoản tốt hơn; hai là giúp kiểm soát hành vi của nhà quản lý trong công ty.
Đối với chủ nợ, khi đánh giá một khoản vay tiềm năng, họ sẽ đánh giá giá trị công ty tại mức thấp nhất như một khoản bảo đảm cho khoản vay. Hơn nữa họ sử dụng các biện pháp ràng buộc trong hợp đồng để theo dõi khả năng thanh toán của người vay trong suốt thời gian kỳ vay. Nếu không có những ràng buộc giao ước này, việc phân bổ và sử dụng tài sản của công ty theo ý muốn của nhà quản lý có thể đẩy chủ nợ tới nguy cơ không thể thu hồi khoản vay của mình. Đây là cơ chế kiểm soát cũng như bảo đảm an toàn trước khi quyết định cho vay của các chủ nợ. Theo Zhang (2008), những công ty có mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng cao có thể nhận được mức lãi suất vay ưu đãi hơn. Hơn thế, với chi phí vay nợ thấp, từ đó công ty có thể đầu tư vào những dự án mang lại giá trị hiện tại ròng dương. Nói cách khác, thận trọng trong kế toán giúp làm giảm khó khăn tài chính và cải thiện hiệu quả đầu tư, từ đó góp phần nâng cao giá cổ phiếu của công ty trên thị trường.
Vẫn theo quan điểm này cho rằng nếu Báo cáo tài chính có mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng cao cũng giúp nâng cao giá cổ phiếu công ty bằng cách hạn chế các hành vi cơ hội từ nhà quản lý (Lafond và Watts, 2008). Người quản lý được thuê có nhiệm kỳ và trách nhiệm hữu hạn với công ty. Do đó, trong nhiệm kỳ của mình, họ có thể có xu hướng và động lực để điều chỉnh lợi nhuận và tác động vào báo cáo tài chính để mang lại lợi ích cho bản thân. Thực hiện tốt nguyên tắc thận trọng trong kế toán giúp hạn chế khả năng nhà quản lý trong việc phóng đại tài sản ròng hiện tại và thu nhập; đồng thời giảm khả năng chiếm đoạt tài sản chung của công ty từ người quản lý. Ngoài ra, các nhà quản lý thường có xu hướng mong muốn tiếp tục vận hành những dự án có khả năng bị thua lỗ trong tương lai vì việc từ bỏ các dự án đó có thể ảnh hưởng đến thu nhập hiện tại hoặc những lợi ích riêng của người quản lý (ví dụ như danh tiếng khi quản lý nhiều dự án lớn, hoặc giám sát các công ty lớn). Việc ghi nhận thận trọng sẽ ghi nhận các khoản lỗ từ các dự án đó một cách nhanh chóng, nói cách khác doanh nghiệp sẽ chấm dứt sớm các dự án có khả năng bị thua lỗ, từ đó giúp các nhà đầu tư có cái nhìn thiện cảm hơn với hình ảnh của công ty, giúp cổ phiếu của công ty được đánh giá cao hơn. Theo Bliss (1924), những công ty có mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng cao trong kế toán sẽ không dự báo lợi ích nhưng dự đoán tất cả các tổn thất có thể có. Điều này ngụ ý rằng tổn thất sẽ được xác định sớm hơn trong khi lợi nhuận được hoãn lại cho đến khi có bằng chứng thực sự. Nhiều ý kiến cho rằng thận trọng là nguyên tắc quan trọng nhất của kế toán, thể hiện một phản ứng cẩn thận với những điều không chắc chắn, đảm bảo những bất ổn và rủi ro tiềm tàng trong các tình huống kinh doanh được xem xét một cách đầy đủ và trọn vẹn. Watts và
Zimmerman (1986) cho rằng nguyên tắc thận trọng sẽ hướng dẫn ghi nhận giá trị thấp nhất trong số các giá trị có thể của tài sản và giá trị cao nhất đối với các khoản nợ.
Quan điểm khác lại cho rằng dưới ảnh hưởng của hành vi điều chỉnh lợi nhuận, nguyên tắc thận trọng trong kế toán có thể bị sử dụng như công cụ để gây ảnh hưởng tiêu cực tới giá cổ phiếu và chất lượng lợi nhuận. Penman và Zhang (2002) cho rằng dưới góc độ của người quản lý cần đưa ra những quyết định tài chính để thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Nếu hệ thống kế toán quá thận trọng, dẫn tới việc ghi nhận doanh thu, thu nhập chậm hơn so với tốc độ ghi nhận chi phí, hao tổn. Điều này sẽ ảnh hưởng lên thông tin trên các báo cáo tài chính, khiến cho lợi nhuận của các công ty này có xu hướng thấp hơn các công ty có mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng thấp hơn. Điều này không thể thu hút các nhà đầu tư và khiến cho tốc độ đầu tư giảm xuống. Beaver và Ryan (2000) cũng đồng ý với quan điểm này và cho rằng các công ty có mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng cao sẽ có giá trị tài sản ròng bị đánh giá thấp hơn so với thực tế. Để giải quyết vấn đề này, các nhà quản lý có thể dùng mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng như công cụ để điều chỉnh lợi nhuận, nghĩa là làm giảm mức độ thực hiện nguyên tắc thận trọng trong ghi nhận kế toán để khiến lợi nhuận tăng cao hơn, từ đó thu hút được thêm các nhà đầu tư, và giá trị cổ phiếu của công ty trên thị trường cũng tăng cao.
Tóm lại, với các quan điểm trái chiều từ các bài nghiên cứu trước đây, thận trọng trong kế toán được cho là có thể làm tăng hoặc làm giảm giá cổ phiếu trong các tình huống khác nhau (khác nhau về mức độ phát triển của thị trường chứng khoán, hành vi và thái độ của nhà quản lý,…). Để xem xét vấn đề này, luận án sẽ đặt mối quan hệ này trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam, đồng thời xem xét và phân tích nó dưới sự ảnh hưởng của hành vi của nhà quản lý.
2.5.3. Nhân tố khác ảnh hưởng tới giá cổ phiếu
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE): Chỉ tiêu này phản ứng mức thu nhập ròng trên vốn cổ phần của cổ đông. Các nhà đầu tư thường sử dụng chỉ tiêu ROE này nhằm so sánh và phân tích các mã cổ phiếu trên thị trường. Tỷ suất này cho thấy tỷ suất lợi nhuận của công ty này so sánh với hệ số thu nhập trên vốn cổ phần của công ty khác sẽ như thế nào, từ đó đánh giá và đưa ra nhận xét khi bỏ ra một đồng vốn sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chính vì vậy, giá trị ROE càng cao thì giá trị cổ phiếu đó càng lớn và hấp dẫn nhà đầu tư, từ đó giúp nhà đầu tư có thông tin tham khảo khi ra quyết định nên lựa chọn mua cổ phiếu của công ty nào. Một trong những cách thức
đánh giá của các nhà đầu tư đó là: nếu tỷ suất ROE này nhỏ hơn hoặc bằng lãi vay ngân hàng thời điểm hiện tại; vậy nếu công ty đang có khoản vay ngân hàng nào cao hơn hoặc tương đương vốn cổ đông, lợi nhuận tạo ra cũng chỉ đủ trả lãi cho ngân hàng. Nói cách khác, việc đầu tư vào đây còn kém hơn gửi lãi suất ngân hàng, nên nhà đầu tư không nên lựa chọn công ty này. Còn nếu trong trường hợp tỷ suất ROE cao hơn lãi của ngân hàng, nghĩa là việc kinh doanh của công ty này có thể chấp nhận được; lúc này nhà đầu tư cần đánh giá thêm những yếu tố khác như công ty đã khai thác được hết lợi thế cạnh tranh trên thị trường chưa, liệu rằng tỷ suất ROE của công ty này có thể tăng trưởng trong tương lai không? Nói cách khác, khi tỷ suất ROE tăng cao thì giá cổ phiếu sẽ có xu hướng tăng cao. Do đó, mối quan hệ dự đoán giữa ROE và giá thị trường mỗi cổ phiếu và quan hệ cùng chiều (+)
Lợi nhuận trên một cổ phiếu (EPS): Chỉ tiêu này là một biến kiểm soát được đưa vào lớp mô hình 2 để thể hiện mức lợi nhuận mà công ty phân bổ cho mỗi cổ phần thông thường đang được lưu hành trên thị trường. EPS là chỉ tiêu được các nhà đầu tư sử dụng thường xuyên để khi tính toán giá cổ phiếu, đánh giá kết quả thực hiện của một công ty qua các thời kỳ, và so sánh kết quả giữa các công ty với nhau. Nói cách khác khi EPS có xu hướng tăng nhanh qua các năm nghĩa là năng lực kinh doanh của công ty cũng càng mạnh hơn, công ty có khả năng trả cổ tức cao, điều này cũng khiến giá cổ phiếu trên thị trường tăng lên. Ngược lại, giá thị trường cổ phiếu có thể giảm khi EPS có xu hướng giảm. Vì vậy lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu có quan hệ cùng chiều (+) với giá trị thị trường của mỗi cổ phiếu. Lợi nhuận luôn là yếu tố được nhà đầu tư quan tâm và tác động mạnh mẽ đến việc đưa ra quyết định đầu tư. Như vậy, khi lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu tăng lên thu hút các nhà đầu tư hơn, kéo theo sự tăng lên của giá trị thị trường của mỗi cổ phiếu
Cổ tức trên một cổ phiếu: Chỉ tiêu này được xây dựng như biến kiểm soát của mô hình. Cổ tức là một phần của lợi nhuận sau thuế được phân phối cho các cổ đông. Lượng cổ tức trả cho cổ đông phụ thuộc vào chính sách cổ tức mà mỗi công ty quy định, đồng thời tình hình kết quả kinh doanh của công ty năm đó. Nếu cổ tức trên một cổ phiếu của công ty giảm, thì cổ phiếu đó trở nên kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, dẫn tới tình trạng giá cổ phiếu sẽ giảm đi trên thị trường. Những cổ đông hiện tại đang sở hữu loại cổ phiếu này không những được nhận lượng cổ tức ít đi mà còn chứng kiến giá cổ phiếu của mình giảm đi. Thị trường sẽ phản ứng rất nhanh với những thay đổi về cổ tức như vậy, do đó chỉ cần một dấu hiệu hay sự quan ngại, phỏng đoán của nhà đầu tư về việc giảm cổ tức cũng có thể khiến giá cổ phiếu đó giảm xuống. Ngược lại,
khi cổ tức tăng lên, cổ phiếu trở nên hấp dẫn hơn với người mua. Lượng cầu tăng lên đó sẽ khiến người bán trên thị trường thứ cấp tăng giá cổ phiếu để thu được nhiều lợi nhuận hơn. Một số trường hợp, các công ty tăng cổ tức của họ trong khi lợi nhuận năm không tăng để làm cho cổ phiếu của họ trông hấp dẫn hơn trong mắt nhà đầu tư. Do đó, các nhà đầu tư cũng cần xem xét thêm các chỉ tiêu khác bên cạnh giá trị cổ tức để tránh những hành vi như vậy.
Tóm lại, chính sách cổ tức ổn định giúp giải quyết sự lo lắng trong tâm trí các nhà đầu tư, và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư lành mạnh. Cổ tức trên mỗi cổ phiếu là thu nhập thực tế mà nhà đầu tư nhận được do đó nó có ảnh hưởng đáng kể đến giá trị thị trường của một cổ phiếu. Cổ tức do đó được cho rằng ảnh hưởng đến giá cổ phiếu theo hướng tích cực như kết luận một số nghiên cứu (Nguyễn Thị Khánh Phương, 2015). Như vậy luận án đưa ra nhận định cổ tức trên mỗi cổ phiếu có quan hệ cùng chiều (+) với giá trị thị trường của mỗi cổ phiếu. Chỉ tiêu này càng lớn sẽ khuyến khích đầu tư nhiều hơn, khi đó giá trị thị trường mỗi cổ phiếu tăng lên.
Quy mô công ty: Quy mô doanh nghiệp là số lượng và sự đa dạng của năng lực sản xuất (hoặc cung ứng dịch vụ) và khả năng mà nó sở hữu (Mule, Mukras, & Nzioka, 2015). Quy mô doanh nghiệp thường được đánh giá qua tài sản hoặc doanh thu. Nhờ vào tính kinh tế theo quy mô, theo quan điểm của trường phái tân cổ điển, quy mô doanh nghiệp là yếu tố cơ bản quyết định khả năng sinh lợi và giá trị thị trường của một doanh nghiệp (Bhattacharyya và Saxena, 2009). Nhờ có tính kinh tế theo quy mô mà cùng một sản phẩm nhưng doanh nghiệp lớn có thể bán với giá thấp hơn so với doanh nghiệp nhỏ. Đó là do doanh nghiệp lớn có thể phân bổ chi phí sản xuất trên một lượng hàng hóa lớn hơn để tăng sản lượng của mình lên, từ đó làm giảm chi phí cho một đơn vị sản phẩm. Như vậy, doanh nghiệp sản xuất với quy mô lớn tỏ ra có ưu thế so với quy mô nhỏ. Như vậy với quy mô lớn, công ty dễ dàng thu hút nhà đầu tư hơn, từ đó khiến giá trị thường mỗi cổ phiếu của công ty cũng tăng lên.