Nghiên cứu một số giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Á Châu – Chi nhánh Quảng Ninh - 2


1.5. Thu thập dữ liệu

Sử dụng dữ liệu sơ cấp: Dữ liệu sơ cấp từ các quy trình nghiệp vụ tín dụng của ACB và các tổ chức tín dụng trong nước.

Sử dụng dữ liệu thứ cấp: Kết quả nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân liên quan như Ngân hàng Standard Charter, và Price Water House Cooper6

Báo cáo thường niên của ACB, các bài viết tại các ấn phẩm về ngân hàng, trên Internet .... Các văn bản pháp luật, các quy định của NHNN

Tài liệu về rủi ro theo hiệp ước Basel7 I, Basel II.

1.6. Ý nghĩa của luận văn

Nâng cao nhận thức và hiểu biết về tầm quan trọng của quản trị rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại nói chung và ACB nói riêng

Để ngân hàng có cái nhìn trực diện và bao quát về thực trạng rủi ro tín dụng và công tác quản trị rủi ro tín dụng hiện nay và thấy được những hạn chế và yếu kém còn tồn tại.

Định hướng ngân hàng theo phương thức quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả, đáp ứng các tiêu chuẩn của Việt Nam và quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của ACB nói chung và ACB Quảng Ninh nói riêng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

3. Hạn chế của Luận văn

Do đặc thù bảo mật thông tin của quản trị rủi ro tín dụng nên luận văn còn tồn tại nhiều hạn chế như là hạn chế về tính minh bạch mặt số liệu thống kê của chính Ngân hàng và hạn chế về kinh nghiệm nghiên cứu các tiêu chuẩn Quốc tế.

Nghiên cứu một số giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Á Châu – Chi nhánh Quảng Ninh - 2

Hạn chế về mặt thời gian thực hiện cùng như nguồn tài liệu nghiên cứu về quản trị rủi ro tín dụng đã gây ra những khó khăn nhất định cho tác giả trong việc nghiên cứu và đưa ra các giải pháp.

Do nghiên cứu tập trung vào phạm vi của chi nhánh ngân hàng trên một tỉnh, nên tính khái quát và hệ thống chưa cao


7 Basel là uỷ ban về giám sát Ngân hàng bao gồm các chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập vào năm 1975 bởi các Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nhóm G10 (Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Vương quốc Anh và Mỹ). Ủy ban tổ chức họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) tại Washington (Mỹ) hoặc tại Thành phố Basel (Thụy Sĩ).


4. Kết cấu của Luận văn Luận văn được kết cấu như sau Mở đầu

Chương 1: Khái quát về tín dụng ngân hàng và quản trị rủi ro tín dụng

Chương 2: Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng và hoạt động quản trị tín dụng tại ACB Quảng Ninh

Chương 3: Một số giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại ACB Quảng Ninh.

Kết luận.


CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG


Trong chương này, luận văn sẽ trình bày những kiến thức cơ bản về:

Tín dụng và tín dụng ngân hàng

Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng


1.1. Tổng quan về tín dụng và tín dụng ngân hàng

1.1.1. Khái niệm tín dụng

Tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa bên giao tài sản và bên nhận tài sản, trong đó bên giao chuyển giao tài sản cho bên nhận sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên nhận có nghĩa vụ hoàn trả vô điều kiện tài sản và lợi ích từ tài sản khi đến hạn thanh toán.

- Tài sản có thể là tiền, hàng hóa, máy móc thiết bị ... hay cam kết về tài sản

- Bên giao tài sản có thể là bên bán chịu, bên cho vay, bên bán trái phiếu ...

- Bên nhận tài sản có thể làm bên mua chịu, bên vay, bên mua trái phiếu ...

1.1.2. Đặc điểm của tín dụng

- Tín dụng là một giao dịch về tài sản trên nguyên tắc có hoàn trả và có thời hạn nhất định được thỏa thuận trước khi thực hiện giao dịch. Ví dụ cho vay, mua bán chậm trả, mua trái phiếu hay thuê tài chính ...

- Tín dụng là hoạt đông mang tính kinh doanh. Việc hoàn trả được thực hiện bằng tiền và giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị của tài sản chuyển giao ban đầu (tức là có lãi, phí).

- Tín dụng là giao dịch có đảm bảo, tức là bên nhận phải có biện pháp để bảo đảm cho việc hoàn trả của mình (như cầm cố, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba)

1.1.3. Tín dụng ngân hàng9

Đây là hoạt động của ngân hàng trong đó ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết tài chính trong một thời gian nhất định theo


9 Trong luận văn này tín dụng sẽ được hiểu là tín dụng ngân hàng. Do đó rủi ro tín dụng được hiểu là rủi ro tín dụng ngân hàng


nguyên tắc các hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ tín dụng khác.

Tín dụng không đồng nghĩa với cho vay, cho vay chỉ là một loại hình chủ yếu của tín dụng trong hoạt động của các TCTD. Vì thế, quản trị rủi ro tín dụng ngoài quản trị rủi ro của hoạt động cho vay còn phải các hoạt động khác như bảo lãnh, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán...

1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng

Tín dụng được phân thành nhiều loại khác nhau dựa vào tiêu thức phân loại và mục đích nghiên cứu. Các tiêu thức phân loại thường dùng là thời gian, mục đích, biện pháp bảo đảm, hình thức tài sản giao dịch, cách thức giao dịch tài sản, phương pháp hoàn trả, hình thức cấp tín dụng .... và một số tiêu thức không bao quát hết các loại tín dụng. Trên thực tế, để phân loại và liệt kê tất cả các loại tín dụng người ta phải kết hợp nhiều tiêu thức. Trong luận văn này, tác giả đưa ra các phân loại kết hợp các tiêu thức trên và thường được các ngân hàng sử dụng. Trước hết theo hình thức thể hiện, tín dụng được chia thành: Cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán và bảo lãnh ngân hàng:

- Cho vay: là một hình thức tín dụng theo đó bên cho vay (Ngân hàng) giao cho Bên vay (khách hàng) một khoản tiền (tiền gốc) để sử dụng và mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.

- Chiết khấu: là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng10, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán. Chiết khấu được chia thành hai loại chính: chiết khấu đối với công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá trong nước và nước ngoài.

- Cho thuê tài chính là việc cấp tín dụng trung hạn, dài hạn (bên thuê nhận tài sản, bên cho thuê được hoàn trả bằng tiền gốc và lãi trong thời gian nhất định) trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính và phải có một trong các điều kiện sau đây:

Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được nhận chuyển quyền sở hữu tài sản cho thuê hoặc tiếp tục thuê theo thỏa thuận của hai bên;


10 Công cụ chuyển nhượng là giấy tờ có giá ghi nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định vào một thời điểm nhất định. Công cụ chuyển nhượng có hối phiếu, séc ...


Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản cho thuê tại thời điểm mua lại;

Thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng một tỷ lệ nhất định (ví dụ 60%) so với thời gian cần thiết để khấu hao tài sản cho thuê đó;

Tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất phải bằng giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.

Theo quy định hiện hành tại Việt nam thì các ngân hàng không được trực tiếp thực hiện hoạt động tín dụng này mà chỉ được thực hiện gián tiếp, tức là lập công ty trực thuộc để chuyển thực hiện hoạt động cho thuê tài chính dưới dạng Công ty thuê tài chính.

- Bao thanh toán: là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Bao thanh toán có thể chia là bao thanh toán có truy đòi hoặc không truy đòi, bao thanh toán cho người mua hoặc bao thanh toán cho người bán, bao thanh toán xuất khẩu hoặc bao thanh toán trong nước

- Bảo lãnh ngân hàng: là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận.

1.2. Rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng

1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng

- Rủi ro tín dụng được nhìn nhận trên hai khía cạnh: (1) các tổn thất phát sinh đối với Ngân hàng khi cấp tín dụng, rủi ro tín dụng là việc đã xảy ra, thực tế ngân hàng hàng đã chịu mất mát và tổn thất . Theo khía cạnh này thì giải pháp quản trị rủi ro tín dụng sẽ thiên về việc khắc phục và xử lý rủi ro; (2) khả năng xảy ra các tổn thất đối với Ngân hàng khi cấp tín dụng, rủi ro tín dụng là việc chưa xảy ra,


mà chỉ có khả năng xảy ra trong tương lai. Theo khía cạnh này, giải pháp quản trị rủi ro sẽ thiên về việc ngăn chặn và phòng ngừa. Trên thực tế, rủi ro tín dụng chỉ xảy ra khi ngân hàng (bên cấp tín dụng) đã cam kết hoặc đã thực hiện việc cấp tín dụng thông qua hợp đồng cấp tín dụng đã được ký kết với khách hàng (bên được cấp tín dụng). Từ các lập luận trên, tác giả đưa ra khái niệm rủi ro tín dụng như sau: “ Rủi ro tín dụng là tổn thất có khả năng hoặc đã xảy ra đối với bên cấp tín dụng khi đã cam kết hoặc đã thực hiện việc cấp tín dụng cho bên được cấp tín

dụng “

- Rủi ro tín dụng xuất phát từ việc bên được cấp tín dụng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ đúng hạn các nghĩa vụ (chủ yếu là nghĩa vụ tài chính) đối với bên cấp tín dụng theo thỏa thuận giữa các bên trước đó trong hợp đồng cấp tín dụng. Rủi ro tín dụng được xem xét trong cả quá trình tín dụng 11(trước, trong và

sau khi cấp tín dụng) và trên cả hai khía cạnh khả năng xảy ra tổn thất và các tổn thất đã xảy ra đối với bên cấp tín dụng.

1.2.2. Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng

Trong một khoản tín dụng thì có một hoặc một số nguyên nhân gây ra rủi ro. Trên thực tế nguyên nhân được chia làm rất nhiều loại như nguyên nhân chính, nguyên nhân phụ; nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp; nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan; nguyên nhân khởi phát, nguyên nhân thứ phát

... đôi khi các nguyên nhân có quan hệ chặt chẽ với nhau gây ra rủi ro. Việc phân tích các nguyên nhân rủi ro tín dụng cho phép nhà quản trị lựa chọn các biện pháp, công cụ quản trị thích hợp nhằm ngăn chặn, phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng. Về nguyên tắc, bất kể điều gì ảnh hưởng đến khả năng (quy mô của nguồn trả nợ và ý thức sẵn sàng trả nợ của khách hàng) thực hiện nghĩa vụ tài chính của khách hàng đối với ngân hàng hoặc cam kết của ngân hàng với khách hàng thì đều là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng có các nhóm nguyên nhân như sau:


a. Nhóm nguyên nhân xuất phát từ ngân hàng


11 Quá trình tín dụng là quá trình diễn ra kể từ khi một hồ sơ tín dụng được khách hàng đề nghị cấp tín dụng và được ngân hàng tiếp nhận hồ sơ đến khi khoản cấp tín dụng được thanh lý.


- Chính sách tín dụng không chặt chẽ, lới lỏng quá mức (trong thời gian tăng trưởng tín dụng “quá nóng”) các điều kiện cấp tín dụng và chấp nhận rủi ro cao.

- Chính sách tập trung cấp tín dụng quá nhiều vào một ngành nghề, lĩnh vực, địa phương có nhiều rủi ro như ngành nông nghiệp, lĩnh vực bất động sản, khu vực miền núi nông thôn...

- Quy trình, thủ tục trong quá trình cấp tín dụng không chặt chẽ, không rõ ràng tạo ra nhiều kẽ hở cho khách hàng và nhân viên lợi dụng.

- Các quy định hạn chế tín dụng, về điều kiện nhận đảm bảo... không được thực hiện nghiêm túc.

- Trình độ, kinh nghiệp và sự hiểu biết của cán bộ, nhân viên thẩm định và phê duyệt tín dụng còn hạn chế như việc không đánh giá hết rủi ro và dẫn đến không đưa ra được các biện pháp tốt ngăn chặn rủi ro của hồ sơ tín dụng, cũng như không loại trừ những hồ sơ xấu.

- Định giá tài sản bảo đảm quá cao, không nhận thức đúng về tính pháp lý và thanh khoản của TSBĐ

- Không giám sát, kiểm tra kịp thời các hồ sơ tín dụng đã thực hiện.

- Hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động không hiệu quả không phát hiện và đề

xuất xử lý kịp thời các khoản cấp tín dụng có vấn để

- Phân quyền phê duyệt tín dụng quá lớn và phê duyệt tín dụng phân tán. Không bảo đảm tính độc lập và khách quan giữa việc thẩm định và ra quyết định tín dụng

- Ngân hàng gặp khó khăn về tài chính dẫn đến không nguồn vốn để cấp tín dụng phải ngừng cấp tín dụng cho khách hàng hoặc cấp tín dụng với giá cao, điều kiện chặt chẽ, hoặc phải thu hồi các khoản trước hạn tín dụng đã cấp hoặc không đủ khả năng thực hiện các cam kết với khách hàng. Khách hàng không có vốn hoặc có đủ vốn để luân chuyển kinh doanh, tiếp tục đầu tư, và do đó sẽ không có nguồn thu để trả nợ đầy đủ và đúng hạn ngân hàng. Nếu khó khăn của khách hàng kéo dài sẽ gây khó khăn lại cho ngân hàng...


b. Nhóm nguyên nhân xuất phát từ khách hàng

- Năng lực sản xuất kinh doanh: khả năng sản xuất, khả năng tài chính, khả năng quả lý yếu... làm giảm khả năng sinh lợi của hoạt động kinh doanh, giảm khả năng trả nợ vay của khách hàng đối với ngân hàng. Ví dụ: khả năng tài chính yếu, Khách hàng vay nợ nhiều, tăng chi phí, giảm lợi nhuận, Giảm nguồn trả nợ cho ngân hàng.

- Khách hàng không đủ tư cách pháp lý trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.

- Khách hàng sử dụng sai mục đích vay vốn, khách hàng cố tình lừa đảo, cung cấp sai thông tin và giải mạo tài liệu và chứng từ...

- Khách hàng buôn lỏng quản lý, tham ô, tham nhũng, nội bộ mất đoàn kết, mẫu thuẫn... dẫn đến kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ, phá sản không đủ khả năng trả nợ ngân hàng.

- Khách hàng là cá nhân bị chết, khách hàng và người bảo lãnh bỏ trốn.

- Khách hàng bất hợp tác trong quá trình trả nợ, xử lý tài sản đảm bảo.

- Tài sản đảm bảo của khách hàng không đủ đảm bảo cho khoản vay vì giảm giá. Tài sản đảm bảo không có tính pháp lý đầu đủ, có tranh chấp hoặc không phát mại được...

c. Nhóm nguyên nhân khách quan

- Các cuộc khủng hoảng kinh tế trong và ngoài nước: làm lạm phát cao, lãi suất cao, tỷ giá cao, nhu cầu giảm... chi phí sản xuất kinh doanh cao, hàng tồn kho nhiều. Khách hàng không tiêu thụ được sản phẩm không có nguồn trả nợ và gây ra rủi ro tín dụng. Mặt khác, khủng hoảng kinh tế sẽ làm rủi ro tín dụng tăng cao do việc xử lý nợ xấu khó khăn hơn vì các thị trường tài sản (đặc biệt là thị trường bất động sản suy giảm).

- Do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, bất ổn tình hình an ninh chính trị xã hội.... cũng hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, ảnh hưởng đến nguồn trả nợ của khách hàng và gây ra rủi ro tín dụng

- Sự thay đổi đột ngột các chính sách điều hành của chính phủ (kể cả chính sách kinh tế về thuế, tỷ giá, lãi suất...), các chính sách bảo hộ sản xuất của các nước

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 05/05/2023