Các Giải Pháp Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng


Đo lường và đánh giá rủi ro tín dụng

Sau khi đã xác định được rủi ro tín dụng, bước tiếp theo trong quá trình quản trị rủi ro tín dụng là đo lường được rủi ro thông qua các công cụ, mô hình đo lường rủi ro tín dụng như mô hình 6C, mô hình chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng, mô hình Z, mô hình EL... . Xác định mức độ và đánh giá hậu quả rủi ro tín dụng đối với hoạt động của ngân hàng với cả khoản tín dụng và biện pháp đảm đảm tín dụng. Việc đo lượng và đánh giá cũng phải thực hiện trong suốt quá trình cấp tín dụng và là căn cứ quan trọng để các quyết định tín dụng. Quyết định tín dụng được đưa ra trên cơ sở việc phân tích và đánh giá về rủi ro của khoản tín dụng và khả năng chấp nhận rủi ro của người quyết định.

Kiểm soát rủi ro tín dụng

- Kiểm soát là giúp nhà quản trị nắm được tình trạng và diễn biến rủi ro theo thời gian như thế nào thông qua việc sử dụng các phương pháp (giám sát gần, giám sát từ xa, đánh giá định kỳ khoản tín dụng), công cụ (xếp hạng nội bộ, theo dõi các dấu hiện của khoản tín dụng có vấn đề, đòi nợ thúc nợ...) và bộ máy giám sát ( nhân viên thẩm định, kiểm soát viên tín dụng, kiểm toán viên...). Kiểm soát rủi ro được thực hiện theo hai hướng: (1) Kiểm soát khả năng xảy ra rủi ro theo những đánh giá, nhận định từ trước và đảm bảo khoản tín dụng được thực hiện phù hợp với các điều kiện cấp tín dụng đã được quyết định trước khi cấp tín dụng; (2) Kiểm soát để phát hiện những vấn đề mới phát sinh không được lường trước có thể gây ra tổn thất không mong muốn đối với ngân hàng để kịp thời đưa ra biện pháp nhằm hạn chế tối đa và khắc phục ngay các tổn thất xảy ra cho ngân hàng. Kiểm soát rủi ro phải được thực hiện trong xuốt quá trình tín dụng từ khi nhận hồ sơ đến khi thanh lý một khoản tín dụng, việc kiểm soát thực hiện ở các khâu, các điểm chốt chính có thể gây rủi ro trong quá trình tín dụng thì mới có hiệu quả.

- Mục đích của kiểm soát tín dụng là phát hiện, đánh giá kịp thời, đầy đủ các tổn thất, thiệt hại có thể hoặc đã xảy ra đối với ngân hàng để từ đó đưa ra các quyết định về giải pháp hạn chế và khắc phục tổn thất. Bảo đảm nếu tổn thất xảy ra thì sẽ không vượt quá mức tổn thất được chấp nhận hoặc hạn chế tối đa các tổn thất không dự kiến


19


Tài trợ rủi ro tín dụng:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Rủi ro tín dụng là tất yếu, chấp nhận rủi ro tín dụng là qua điểm quản trị rủi ro tín dụng, vì vậy, khi đã sử dụng hết các biện pháp nhằm phòng ngừa, hạn chế, khắc phục mà tổn thất vẫn xảy ra thì ngân hàng phải chấp nhận đó là mất mát của ngân hàng và tìm cách xử lý. Thông thường việc bù đắp các tổn thất xảy được thực hiện thông qua quỹ dự phòng, nguồn lực tài chính của ngân hàng hoặc xác định trách nhiệm vật chất cá nhân nếu rủi ro tín dụng do lỗi cố ý của cá nhân...

1.2.6. Các giải pháp quản trị rủi ro tín dụng

Nghiên cứu một số giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Á Châu – Chi nhánh Quảng Ninh - 4

1.2.6.1 Nhóm giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn

- Xây dựng chính sách tín dụng

Một trong những giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tốt nhất là từ chối cấp tín dụng đối với các hồ sơ không điều kiện cấp tín dụng. Quản trị rủi ro tín dụng là phải chấp nhận rủi ro và phải bảo đảm mục tiêu phát triển của ngân hàng, cân đối giữa rủi ro – lợi nhuận. Vấn đề đặt ra là phải xây được chính sách tín dụng thận trọng, chặt chẽ và xem xét thay đổi định kỳ phù hợp với môi trường, điều kiện kinh doanh cũng như nguồn lực và khả năng quản lý của Ngân hàng. Chính sách tín dụng phải đưa ra được những định hướng tốt trên cơ sở phân tích môi trường điều kiện kinh doanh nói chung và tín dụng nói riêng và sử dụng công cụ của chính sách hiệu quả. Nội dung cơ bản của chính sách tín dụng: chính sách khách hàng, chính sách sản phẩm, hoạt động thẩm định khách hàng, tiêu chuẩn thẩm định khách hàng, cơ chế và thẩm quyềt xét duyệt duyệt tín dụng, hệ thống giám sát, kiểm soát hoạt động tín dụng, công cụ ngăn ngừa rủi ro tín dụng.... Chính sách tín dụng chặt chẽ không những giúp ngân hàng loại được những hồ sơ tín dụng không tốt, bộ máy quản trị ngân hàng làm việc hiệu quả mà còn giúp nâng cao ý thức thực hiện nghĩa vụ của khách hàng đối với ngân hàng.

Xây dựng các giới hạn tín dụng

Đây là một giải pháp mà các ngân hàng thường dùng để vừa ngăn ngừa rủi ro (không chỉ riêng đối với rủi ro tín dụng) và tạo điều kiện bảo đảm khả năng khắc phục và xử lý rủi ro xảy ra đối với các ngân hàng. Một số giới hạn do các ngân hàng


20


tự đặt ra phù hợp với khẩu vị rủi ro và chính sách quản rủi ro của họ. Một số giới hạn tín dụng do Ngân hàng trung ương đặt ra, và một số được khuyến cáo áp dụng. Với quản trị rủi ro tín dụng, biện pháp này rất có ý nghĩa trong việc ngăn chặn rủi ro danh mục và sự lan truyền của rủi ro tín dụng. Có rất nhiều các giới hạn tín dụng được đặt ra:

Giới hạn nợ xấu trên tổng dư nợ, nợ xấu trên dư nợ của từng sản phẩm...

Giới hạn tín dụng cho một khách hàng và một nhóm khách hàng liên quan

Giới hạn tín dụng cho một sản sản phẩm và nhóm sản phẩm tín dụng

Giới hạn tín dụng đối với một ngành nghề hoặc đối với một khu vực địa lý.

Giới hạn tỷ lệ cấp tín dụng trên giá trị tài sản và từng loại tài sản

- Chấm điểm tín dụng và xếp hạng tín dụng

Trong quá trình thẩm định, đánh giá hồ sơ tín dụng, các ngân hàng có thể sử dụng hệ thống chấm điểm tín dụng (nội bộ hoặc bên ngoài) để xếp hạng hồ sơ tín dụng vào những nhóm có mức độ rủi ro khác nhau. Căn cứ vào kết quả này, người đề xuất cấp tín dụng và quyết định cấp tín dụng có những quyết định phù hợp với mức rủi ro của từng hồ sơ và đưa ra những điều kiện tín dụng để ngăn ngừa rủi ro xảy ra. Trong suốt quá trình tín dụng, nếu điều kiện thay đổi mà ngân hàng nhận thấy có thể gây ra bất kỳ ảnh hưởng tiêu cực đến khoản tín dụng, ảnh hưởng đến khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính của khách hàng thì ngân hàng cũng có thể sử dụng hệ thống chấm điểm tín dụng để đánh giá lại mức độ rủi ro (chấm điểm đột xuất) và có những quyết định quản trị rủi ro phù hợp. Hơn nữa, hệ thống chấp điểm tín dụng và xếp hạng tín dụng cũng là công cụ khá hữu ích để ngân hàng định kỳ đánh giá lại mức độ rủi ro của từng khoản tín dụng cũng nhưng toàn bộ danh mục tín dụng của ngân hàng, sắp xếp khoản tín dụng vào những nhóm có cùng mức độ rủi ro và thực hiện việc trích lập dự phòng theo yêu cầu mục tiêu quản trị rủi ro và của cơ quan quản lý.

- Thẩm định/tái thẩm định/đánh giá định kỳ các khoản tín dụng

Nguyên tắc cấp tín dụng là phải trên cơ sở thẩm định hồ sơ tín dụng. Việc thẩm định đòi hỏi phải khách quan, trung thực và cẩn thận. Thẩm định hồ sơ bao


gồm thẩm định khách hàng, thẩm định phương án sử dụng vốn, thẩm định tình hình tài chính, thẩm định tài sản đảm bảo... . Xét về rủi ro thì thẩm định tín dụng có thể coi phân tích đánh mức độ rủi ro của một hồ sơ tín dụng. Kết quả thẩm định là căn cứ trực tiếp để ngân hàng quyết định cấp tín dụng, chính vì thế, thẩm định có thể coi là một giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng. Trong một số trường hợp khi kết quả thẩm định ban đầu chưa đủ sự tin cậy để ra quyết định tín dụng, hồ sơ tín dụng phức tạp, chứa đựng rủi ro lơn hoặc có những yếu tố nghi ngờ về sự chính xác, trung thực và khách quan của kết quả thẩm định ban đầu... , ngân hàng có thể thực hiện việc tái thẩm định lại hồ sơ tín dụng. Việc tái thẩm định phải được do bộ phận khác thực hiện.

Sau khi đã cấp tín dụng đánh giá định kỳ khoản tín dụng là rất cần thiết, bởi lẽ, môi trường kinh doanh và khách hàng thì luôn luôn biến đổi và làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng và do đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng ...

- Giám sát, kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay

Giám sát và kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, các hoạt động tạo nguồn thu để thực hiện các nghĩa vụ tài chính của khách hàng cũng là một giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng. Việc lơ là kiểm tra mục đích sử dụng vốn rất dễ dẫn đến việc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích và đầu tư vào lĩnh vực rủi ro hơn dẫn đến không có khả năng trả nợ và gây rủi ro cho ngân hàng. Việc kiểm tra mục đích sử dụng và hoạt động tạo nguồn trả nợ của khách hàng sẽ giúp ngân hàng nhanh chóng phát hiện những rủi ro tiềm năng cho các khoản tín dụng và kịp thời đưa ra những quyết định nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Vì thế giám sát và kiểm tra mục đích sử dụng vốn và hoạt động tạo nguồn thu trả nợ ngân hàng là một giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng.

1.2.6.2. Nhóm giải pháp hạn chế và khắc phục

a. Mua bảo hiểm cho khoản tín dụng

Việc mua bảo hiểm cho một khoản tín dụng sẽ giúp tạo nguồn để khắc phục và xử lý rủi ro khách quan xảy ra. Mua bảo hiểm không chỉ đơn thuần là mua bảo hiểm của khoản tín dụng mà còn mua bảo hiểm đối với tài sản đảm bảo, mua bảo hiểm


đối với tài sản hình thành từ phương án cấp tín dụng và tài sản tạo nguồn thu để khách hàng để thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng. Mức bồi thường bảo hiểm đặc biệt là đối với bảo hiểm của tài sản bảo đảm phải ít nhất cao hơn nghĩa vụ trả nợ và phải được chuyển quyền thụ hưởng cho ngân hàng.

b. Giải pháp đảm bảo tín dụng

Bản chất của tín dụng là việc vay mượn vốn trong thời gian nhất định đã được thoả thuận trước và vốn phải được trả lại cho ngân hàng, nếu vốn không được trả lại hoặc trả không đầy đủ thì ngân hàng sẽ bị mất vốn và có tổn thất. Vì thế, ngân hàng cần có những biện pháp buộc khách hàng phải trả vốn và lãi cho ngân hàng và nếu khách hàng không trả thì ngân hàng cũng có nguồn bù đắp. Giải pháp thường sử dụng chính là sử dụng TSBĐ bảo đảm cho việc trả nợ của ngân hàng (đây chính là biện pháp đảm bảo tín dụng), bảo đảm tín dụng bao gồm:

Thế chấp và cầm cố tài sản của khách hàng

Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba theo hình thức thế chấp và cầm cố Trong quá trình tín dụng, nếu cần các ngân hàng có thể thay thế, bổ sung hoặc

rút bớt các loại tài sản bảo (có thể thay thế, bổ sung, bỏ một hoặc một số biện pháp bảo đảm tín dụng)

c. Trả nợ trước hạn/giảm mức cấp tín dụng

Khi điều kiện về bảo đảm tín dụng của khách hàng xấu đi do giá trị tài sản bảo đảm giảm hoặc do giá trị khoản tín dụng tăng lên ... (ví dụ: giá trị bất động là tài sản bảo đảm giảm, khách hàng xin giải chấp một phần tài sản, tỷ giá tăng là khoản vay bằng ngoại tệ được quy đổi sang nội tệ tăng ...), các điều kiện kinh doanh thay đổi theo hướng bất lợi cho khách hàng vay, khách hang bị kiện tụng .... ảnh hưởng đến nguồn trả nợ ... các ngân hàng cần đề nghị khách hàng giảm hạn mức tín dụng xuống hoặc đề nghị khách hàng trả trước hạn một phải khoản nợ để ngăn chặn rủi ro xảy ra sau này.

d. Bổ sung tài sản đảm bảo, cơ cấu nợ

Bổ sung tài sản bảo đảm cũng là giải pháp cần thiết trong trường hợp giá trị khoản tín dụng lớn hơn hoặc vượt quá tỷ lệ bảo đảm cho phép hoặc mức rủi ro cao


hơn. Việc nhận thêm tài sản cũng cần yêu cầu tài sản bảo đảm phải có đủ điều kiện nhận thế chấp hoặc cầm cố và phải thực hiện theo đúng trình tự và thủ tục pháp lý quy định.

Khi khách hàng gặp khó khăn tạm thời trong kinh doanh không đủ nguồn trả nợ, có thiện trí trả nợ cho ngân hàng và ngân hàng cũng không có giải pháp hiệu quả hơn để thu hồi nợ, đặc biệt đối với khoản tín dụng có điều kiện bảo đảm không chặt chẽ và yếu (cho vay tín chấp, tài sản bảo đảm là hàng tồn kho...). Các ngân hàng phải thực hiện việc cơ cấu nợ cho khách hàng. Cơ cấu nợ bao gồm việc thay đổi kỳ hạn trả nợ, số tiền trả nợ từ kỳ hạn hoặc/và kéo dài thời gian đáo hạn của khoản tín dụng với mục đích giảm sức ép trả nợ cho khách hàng, giúp họ có đủ thời gian và nguồn lực khôi phục, duy trì, ổn sản xuất kinh doanh, khắc phục các khó khăn tạm thời và tạo được nguồn trả nợ trong tương lai cho các ngân hàng.

e. Xử lý tài sản đảm bảo

Khi thực hiện các giải pháp mà khách hàng vẫn không có đủ nguồn trả nợ ngân hàng hoặc không có thiện trí trả nợ thì buộc ngân hàng phải tìm các xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ và hạn chế tổn thất. Có rất nhiều cách để xử lý tài sản bảm đảm như để bên bảo đảm tự bán tài sản lấy tiền trả nợ, khách hàng uỷ quyền cho ngân hàng hoặc bên thứ 3 bán tài sản đảm bảo, ngân hàng mua tài sản để trừ nợ cho khách hàng, ngân hàng khởi kiện để tòa án tuyên bố phát mại tài sản bảo đảm...

f. Chuyển nhượng nợ và ủy thác đòi nợ cho bên thứ ba

Để khắc phục rủi ro tín dụng, các ngân hàng cũng có thể chuyển nhượng khoản tín dụng xấu cho bên thứ ba như các (công ty mua bán nợ, thậm trí là ngân hàng khác) chuyên quản lý các khoản nợ và khai thác tài sản. Ngân hàng bán nợ thì phải thực hiện chuyển giao toàn bộ khoản nợ cho bên mua bao gồm giá trị khoản nợ, các quyền lợi và nghĩa vụ khác của khoản nợ cũng như là tài sản bảo đảm cho bên mua nợ. Việc mua bán nợ chỉ giúp cho Ngân hàng thu được một phần nợ mà không thể thu được toàn bộ nợ vì giá bán nợ bao giờ cũng thấp hơn giá trị của khoản nợ. Việc mua bán nợ giúp ngân hàng xử lý lý nhanh chóng các khoản nợ xấu và chấp nhận ở mức hợp lý. Việc bán nợ thường thực hiện theo những quy định


riêng và hợp pháp, tuy nhiên, trong thực tế có thể việc bán nợ xảy ra không theo quy định và không hợp pháp.

Ngoài biện pháp bán nợ, ngân hàng có thể ủy thác việc đòi nợ cho công ty chuyên xử lý nợ của ngân hàng để quản lý, thực hiện các biện pháp đòi nợ và khai thác các tài sản từ các khoản nợ. Phương pháp này không làm giảm nợ xấu của ngân hàng xong nó làm cho công tác xử lý nợ xấu của ngân hàng chuyển nghiệp hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn, giúp ngân hàng chuyên tâm hơn về các hoạt động sinh lợi chính và vì thế giúp hạn chế được rủi ro đối với ngân hàng nếu để ngân hàng tự xử lý.

g. Tiếp tục cấp tín dụng

Yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng chính là sự suy giảm nguồn trả nợ của khách hàng. Nguồn trả nợ được hình thành từ thu nhập của khách hàng. Khách hàng nếu không đủ nguồn vốn thì sẽ không thể thực hiện thành công phương án sử dụng vốn. Trong trường hợp này, rủi ro tín dụng sẽ có thể xảy ra đối với các ngân hàng cấp tín dụng, việc cấp thêm tín dụng cho khách hàng là cần thiết. Khách hàng có đủ vốn để tiếp tục thực hiện phương án sử dụng vốn và duy trì hoạt động kinh doanh tạo ra nguồn trả nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên, để thực hiện được biện pháp này các ngân hàng phải đánh giá đúng tình hình của khách hàng nếu không tiếp tục cấp tín dụng cho khách hàng có thể tiếp tục làm rủi ro tín dụng lớn hơn. Giải pháp này thường được kết hợp với các giải pháp khác như cơ cấu nợ, bổ sung tài sản bảo đảm ...

h. Mở rộng quy mô tín dụng

Trong rất nhiều trường hợp việc mở rộng quy mô thay vì hạn chế quy mô tín dụng sẽ làm kết quả hoạt động quản trị rủi ro tốt hơn. Để làm giảm nợ xấu tại các ngân hàng, ngoài việc tìm các giải pháp giảm tuyệt đối nợ xấu thì việc mở rộng tín dụng về mặt tuyệt đối cũng giúp tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng giảm và tăng nguồn thu trong tương lai giúp ngân hàng có thêm tiềm lực tài trợ rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, cũng như giải pháp trên, việc mở rộng tín dụng phải được thực hiện an toàn nếu không nó sẽ làm rủi ro tín dụng thêm trầm trọng


i. Chuyển khoản nợ thành vốn góp

Khi khác hàng không có khả năng trả nợ, ngân hàng cũng có thể chuyển khoản cho vay của mình thành khoán vốn góp. Khi đó ngân hàng sẽ trở thành chủ sở hữu của khách hàng thay vì là chủ nợ của khách hàng. Ngân hàng phải chuyển vốn từ nguồn huy động sang nguồn tự có. Ngân hàng có thể tham gia vào hoạt động kinh doanh và điều hành của khách hàng. Sau khi khách hàng hết khó khăn hoặc gặp thời điểm thuận lợi hơn sẽ chuyển nhượng phần vốn góp để thu hồi vốn. Giải pháp này thực hiện khi khách hàng còn có giá trị nhất định (về năng lực sản xuất, về thị trường, về thương hiệu) và nếu thực hiện các biện pháp khác sẽ dẫn đến tổn thất nhiều hơn hoặc mất toàn bộ gốc lãi.

1.2.6.3. Nhóm giải pháp tài trợ rủi ro

a. Trích lập quỹ dự phòng

Một giải pháp phổ biến trong quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng là trích chi phí dự phòng và lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng nhằm xử lý các tổn thất đã xảy ra mà không còn biện pháp nào khắc phục được. Tỷ lệ trích dự phòng sẽ cao hơn ở nhóm nợ có độ rủi ro cao hơn và được trích theo từng kỳ sau khi các khoản nợ được phân nhóm. Toàn bộ các chi phí dự phòng tạo thành quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Việc trích lập dự phòng thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng và có thể ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Việc sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng cũng được thực hiện theo quy định riêng.

b. Khoanh nợ và xóa nợ

Khi khoản tín dụng có rủi ro sau khi đã xử lý hết qua các quỹ dự phòng rủi ro mà vẫn còn thì các ngân hàng có thể khoanh nợ lại (tức là không tính lãi) để khách hàng trả nợ gốc sau hoặc nếu ngân hàng có điều kiện thì xóa nợ cho khách hàng. Ngân hàng có thể xóa nợ bằng các nguồn khác ngoài quỹ dự phòng rủi ro tín dụng như nguồn lợi nhuận giữa lại..

c. Bồi hoàn cá nhân

Rủi ro tín dụng được gây ra bởi nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân do lỗi của cán bộ có liên quan trong quá trình tín dụng. Các lỗi cố tình làm sai để tư

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 05/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí