Trong huấn luyện thể thao nói chung và huấn luyện thể lực nói riêng, để giải quyết các nhiệm vụ đặc thù phát triển thể lực cho VĐV, người ta sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, trong đó, phương tiện đặc trưng nhất là các bài tập thể chất. Ngoài ra còn có các yếu tố môi trường tự nhiên và các yếu tố vệ sinh. Tìm hiểu cụ thể về các phương tiện sử dụng trong huấn luyện thể lực cho thấy:
1.3.4.1. Bài tập Thể dục thể thao (còn gọi là bài tập thể chất)
Khái niệm bài tập TDTT: Là những hành động vận động chuyên biệt do con người sáng tạo ra một cách có ý thức, có chủ đích và được sử dụng phù hợp với quy luật vận động để giải quyết các nhiệm vụ của thể dục thể thao.
Phân loại các bài tập TDTT có nghĩa là sắp xếp chúng thành những nhóm sao cho những loại hình bài tập trong mỗi nhóm có sự giống nhau về những tính chất cơ bản nhất.
Ý nghĩa của phân loại bài tập TDTT: bài tập TDTT rất đa dạng và phong phú, nhờ việc phân loại ta dễ định hướng, lựa chọn và sử dụng chúng theo mục đích của mình [14], [48], [51].
Phân loại bài tập TDTT có nhiều cách:
Phân loại căn cứ vào quá trình hình thành trong lịch sử: bài tập TDTT được chia thành bài tập thể dục, thể thao, trò chơi và du lịch:
Phân loại căn cứ vào mục đích huấn luyện: Các BT TDTT được chia thành: Bài tập thi đấu; Bài tập chuẩn bị chung và Bài tập chuẩn bị chuyên môn.
Phân loại căn cứ vào đặc điểm tố chất thể lực: Các BT TDTT được chia thành: Bài tập sức mạnh tốc độ; Bài tập sức bền (LVĐ chặt chẽ, số lượng, tuần tự BT được xác định chặt chẽ…); Bác bài tập trong tình huống biến đổi….
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tốc độ cho nam vận động viên Pencak Silat Bộ Công an - 2
- Đặc Điểm Huấn Luyện Sức Mạnh Tốc Độ Cho Vận Động Viên Pencak
- Phương Pháp Huấn Luyện Sức Mạnh Tốc Độ Môn Pencak Silat
- Đặc Điểm Phát Triển Sức Mạnh Của Vận Động Viên Pencak Silat Lứa Tuổi 16-18
- Phương Pháp Phân Tích Và Tổng Hợp Tài Liệu
- Thực Trạng Sức Mạnh Tốc Độ Của Nam Vận Động Viên Pencak Silat Bộ Công An.
Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.
Phân loại căn cứ vào một số môn khoa học khác: như sinh lý, sinh cơ… các môn này có cách chia riêng. Ví dụ: Các môn có chu kỳ, môn không có chu kỳ và môn hỗn hợp, hay căn cứ vào các bộ phận cơ thể mà chia ra thành bài tập tay, bài tập chân, bài tập thân mình… [14], [48], [51]
Trong huấn luyện phát triển SMTĐ môn Pencak Silat, phương tiện chính được sử dụng là bài tập thể chất (bao gồm cả bài tập phát triển SMTĐ chung và bài tập phát triển SMTĐ chuyên môn).
1.3.4.2. Yếu tố môi trường tự nhiên
Các yếu tố của môi trường tự nhiên như ánh sáng, nước, không khí cũng là những phương tiện không kém phần quan trọng để củng cố sức khỏe, tôi luyện cơ thể và nâng cao khả năng hoạt động thể lực của con người, trong đó có phát triển thể lực, đặc biệt là SMTĐ cho VĐV các môn thể thao.
Thường xuyên tập luyện TDTT trong các điều kiện: Ánh sáng, không khí, tính chất nước... khác nhau sẽ tạo cho hệ thống thần kinh trung ương thích nghi với sự thay đổi đột ngột của hoàn cảnh, thời tiết, phòng chống được các bệnh tật như: cảm lạnh, cảm nắng, cảm gió... Đồng thời, không khí trong sạch và nước lạnh sẽ kích thích thần kinh khiến cho tinh thần con người thêm sảng khoái, hứng thú, tỉnh táo, tăng thêm trí nhớ, nâng cao được hiệu suất học tập và thành tích vận động cũng được tăng lên... [14], [48].
Việc lợi dụng các điều kiện thiên nhiên để nâng cao hiệu quả các bài tập thể chất và tôi luyện cơ thể là rất cần thiết trong quá trình huấn luyện thể thao. Để công tác huấn luyện ngày càng có hiệu quả cao cần kết hợp việc sử dụng các bài tập thể chất với các điều kiện thiên nhiên và đảm bảo các yêu cầu về vệ sinh. [51].
Trong huấn luyện SMTĐ môn Pencak Silat, ứng dụng các yếu tố tự nhiên như điều kiện địa hình dốc, không khí loãng… vẫn được các HLV sử dụng nhằm nâng cao hiệu quả huấn luyện, giúp VĐV thích nghi tốt hơn với các môi trường tập luyện khác nhau.
1.3.4.3. Yếu tố vệ sinh
Vệ sinh là khoa học về sức khỏe và xây dựng các điều kiện thích hợp nhằm tăng cường sức khỏe của con người, đề phòng bệnh tật. Mục đích của vệ sinh là nghiên cứu các ảnh hưởng của môi trường sống và lao động đối với sức khỏe, đảm bảo điều kiện tối ưu để duy trì sức khỏe và kéo dài tuổi thọ con người.
Trong lĩnh vực TDTT, nghiên cứu tác động của các yếu tố môi trường đối với cơ thể người tập có vị trí rất quan trọng. Các kiến thức về vệ sinh học không chỉ góp phần hạn chế những ảnh hưởng xấu của môi trường với cơ thể người tập mà còn tạo cơ sở khoa học để sử dụng các yếu tố môi trường nhằm tăng hiệu quả của tập luyện, nâng cao trạng thái sức khỏe chung và đề phòng chấn thương.
Vệ sinh TDTT bao gồm các phần vệ sinh cá nhân, về sinh môi trường, vệ sinh sân bãi dụng cụ TDTT và các phương pháp vệ sinh nhằm hồi phục và nâng cao khả năng làm việc [14].
Trong huấn luyện SMTĐ môn Pencak Silat, yếu tố vệ sinh có tác động rất lớn tới hiệu quả huấn luyện, bao gồm cả vệ sinh cá nhân, vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường tập luyện, vệ sinh thân thể, trang phục…
Tóm lại, phương tiện chính được sử dụng trong huấn luyện SMTĐ môn Pencak Silat là bài tập thể chất. Ngoài ra, các phương tiện khác như các yếu tố môi trường tự nhiên và yếu tố vệ sinh cũng là các phương tiện hỗ trợ quan trọng trong quá trình huấn luyện STMĐ môn thể thao này.
1.4. Lượng vận động và quãng nghỉ trong huấn luyện sức mạnh tốc độ môn Pencak Silat
1.4.1. Khái quát về lượng vận động và quãng nghỉ, thành phần cơ bản của bài tập thể chất
1.4.1.1. Lượng vận động
Khái niệm: Lượng vận động (LVĐ) là mức độ tác của bài tập thể chất lên cơ thể người tập. [48], [51].
LVĐ trong quá trình tập luyện thể thao bao gồm LVĐ bên trong và LVĐ bên ngoài. Trong đó: LVĐ bên trong là mức độ biến đổi sinh lý, sinh hoá trong cơ thể người tập khi thực hiện bài tập; LVĐ bên ngoài là LVĐ tác động lên cơ thể người tập thông qua bài tập thể lực. LVĐ bên ngoài bao gồm 2 thành phần cơ bản là: Khối lượng vận động và cường độ vận động.
Khối lượng vận động: Là độ kéo dài thời gian của động tác như tổng cự ly chạy, tổng trọng lượng gánh vác, tổng số lần lặp lại,… và được đo bằng đơn vị: km, kg, tấn tạ,…
Cường độ (I): là mức căng thẳng chức năng do bài tập gây ra trong một khoảng thời gian tác động cụ thể nào đó.
Giữa khối lượng (KL) và cường độ vận động (I) cũng có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau trong một giới hạn. Nếu khối lượng tăng tối đa thì cường độ phải giảm, ngược lại, nếu khối lượng giảm thì cường độ tăng. [48], [51].
Như vậy, trong huấn luyện SMTĐ cho VĐV Pencak Silat sự thay đổi khối lượng và cường độ vận động sẽ tạo nên hiệu quả ý nghĩa của buổi tập. Có thể hiểu đơn giản: Khi sử dụng cùng cường độ vận động nhưng khác nhau về khối lượng vận động thì mức độ tác động lên cơ thể sẽ khác nhau và ngược lại. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong lập kế hoạch và điều chỉnh LVĐ. Tuy nhiên, ngoài khối lượng và cường độ vận động hiệu quả tập luyện hay LVĐ của bài tập thể chất còn phụ thuộc vào quãng nghỉ giữa các lần tập của từng bài tập và quãng nghỉ giữa các bài tập [48], [51], [71].
1.4.1.2. Quãng nghỉ
Khái niệm quãng nghỉ: Quãng nghỉ là thành tố cơ bản của bài tập thể chất bởi vì cùng LVĐ nhưng thay đổi quãng nghỉ thì hiệu quả tác động của LVĐ cũng thay đổi.
Căn cứ vào mức độ hồi phục, có thể phân quãng nghỉ thành 3 loại:
Quãng nghỉ căng thẳng (còn gọi là quãng nghỉ ngắn): Là quãng nghỉ mà LVĐ tiếp theo rơi vào thời điểm cơ thể chưa hồi phục về trạng thái ban đầu. Phương pháp này được dùng để phát triển sức bền.
Quãng nghỉ đầy đủ: Là quãng nghỉ mà LVĐ tác động tiếp theo rơi vào thời điểm cơ thể đã hồi phục về trạng thái ban đầu. Phương pháp này thường đựoc sử dụng trong huấn luyện kỹ thuật động tác hoặc phát triển sức nhanh, sức mạnh tốc độ... Trong phát triển SMTĐ cho VĐV Pencak Silat thuộc đối tượng nghiên cứu, quãng nghỉ đủ thường đượcc sử dụng.
Quãng nghỉ hồi phục vượt mức: là quãng nghỉ mà LVĐ tác động tiếp theo rơi thời điểm cơ thể đang hồi phục vượt mức [48], [51], [71].
Thời gian quãng nghỉ trong các phương pháp khác nhau được xây dựng tuỳ theo mục đích buổi tập, tức là thời gian trong các phương pháp khác nhau được xác định theo khuynh hướng trội hơn (theo tố chất vận động) và quy luật của quá trình hồi phục.
Quãng nghỉ có thể tiến hành theo 2 thuộc tính (tính chất): Nghỉ thụ động hoặc nghỉ tích cực. Quãng nghỉ tích cực: Là trong khi nghỉ vẫn có bài tập phụ vận động nhẹ nhàng với cường độ thấp. Và quãng nghỉ thụ động: Là quãng nghỉ trong khi nghỉ không có hoạt động vận động hay nói cách khác, không làm gì cả
[48], [51], [71]. Trong huấn luyện SMTĐ cho VĐV Pencak Silat, quãng nghỉ tích cực thường được sử dụng.
Hiệu quả sử dụng một loại quãng nghỉ nào đó không phải là cố định. Những quãng nghỉ có cùng độ dài thời gian nhưng trong các điều kiện khác nhau có thể có tác dụng như quãng nghỉ ngắn hoặc đầy đủ hoặc vượt mức. Mặt khác tuỳ theo quãng nghỉ mà hiệu quả tác động của LVĐ riêng lẻ và cả buổi tập nói chung cũng thay đổi [48], [51], [71].
Như vậy, để hiệu quả buổi tập đi đúng hướng đặt ra, điều chỉnh lượng vận động và quãng nghỉ là vấn đề cơ bản, cần thiết và có tính chất quyết định.
1.4.1.3. Điều chỉnh lượng vận động và quãng nghỉ trong huấn luyện thể
thao
Điều chỉnh LVĐ và quãng nghỉ là vấn đề cơ bản trong HLTT. Sự cần
thiết đối với điều chỉnh LVĐ trong HLTT là phải tăng LVĐ một cách phù hợp: Huấn luyện thể thao cũng như mọi quá trình tập luyện khác đều không ngừng vận động, phát triển, thay đổi từ buổi tập này sang buổi tập khác, từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Nét đặc trưng trong sự vận động của quá trình HLTT là phải thường xuyên tăng độ phức tạp của bài tập, tăng cường độ và thời gian tác động của các bài tập đó, bởi mỗi lần thích nghi, VĐV đã bước lên một giai đoạn phát triển mới, trình độ tập luyện tăng thêm 1 bước [48], [51], [71].
Mức độ biến đổi diễn ra trong cơ thể dưới tác động của BTTC, trong những giai đoạn nhất định. Tỉ lệ thuận với khối lượng và cường độ vận động. Nếu đảm bảo các điều kiện cần thiết khi khối lượng vận động càng lớn sẽ tạo được những biến đổi thích nghi càng mạnh mẽ và vững chắc: Cường độ vận động càng lớn các quá trình hồi và hồi phục vượt mức càng mạnh mẽ. Điều đó đã được thực nghiệm khoa học chứng minh. Như vậy LVĐ là nguyên nhân của sự phát triển [48], [51], [71].
Mặt khác (cũng cần lưu ý rằng) phản ứng của cơ thể đối với cùng một LVĐ cũng luôn luôn thay đổi theo mức độ thích nghi. Mà những diễn biến chức năng sinh học do LVĐ ban đầu gây ra ngày càng nhỏ đi. Trong cơ thể xuất hiện khả năng “tiết kiệm hoá chức năng”, khi LVĐ trở nên quen thuộc thì không còn là kích thích cho những phản ứng thích nghi nữa. Để tiếp tục nâng cao khả năng
chức phận của cơ thể cần phải đổi mới một cách hệ thống cường độ và khối LVĐ. Đó chính là một trong những quy luật của quá trìn HLTT. Khi huấn luyện các tố chất thể lực, qui luật đó được thể hiện ở sự thay đổi theo chiều tăng lên các thông số khác nhau của LVĐ, tốc độ, trọng lượng số lần lặp lại, tổng số thời gian... [48], [51], [71].
Tuy nhiên, khi điều khiển LVĐ trong quá trình huấn luyện cũng cần chú ý một số vấn đề sau:
Điều kiện cơ bản để nâng cao các yêu cầu trong quá trình huấn luyện thể thao là phải đảm bảo tính hệ thống. Các yêu cầu được tăng lên nhưng không vượt quá khả năng chức phận của cơ thể mà phải đảm bảo vừa sức người tập. Tính thường xuyên và tuần tự hợp lí cũng như luân phiên hợp lí vận động và nghỉ ngơi là điều kiện cần thiết để nâng cao yêu cầu tập luyện.
Đảm bảo tính bền vững của kĩ xảo và các biến đổi thích nghi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình đổi mới nhiệm vụ vận động và tăng LVĐ. Việc chuyển sang các bài tập mới, khó khăn và phức tạp hơn cần tiến hành tuỳ thuộc vào mức độ củng cố kĩ xảo và mức độ thích nghi đối với LVĐ. [48], [51], [71].
Như vậy có thể kết luận rằng đặc biệt tiêu biểu của diễn biến LVĐ là tính tuần tự.
Có ba hình thức tăng LVĐ: tăng LVĐ theo đường thẳng dốc, tăng LVĐ theo hình thức bậc thang và tăng LVĐ theo hình thức làn sóng. Với các quãng thời gian tương đối dài thì diễn biến LVĐ thường theo hình làn sóng. Nói cách khác việc tăng LVĐ theo hình thức thẳng dốc và bậc thang chỉ nên áp dụng trong những thời kì tương đối ngắn. Ưu thế của hình thức diễn biến LVĐ theo hình làn sóng phù hợp với nhịp sinh học của quá trình sinh lý cũng như chế độ sống và hoạt động của con người; Phù hợp với những quy luật thích nghi chậm của cơ thể trong quá trình tập luyện và giải quyết được mâu thuẫn giữa tăng khối lượng và cường độ vận động.
1.4.2. Lượng vận động và quãng nghỉ trong huấn luyện sức mạnh tốc độ môn Pencak Silat
Xác định chính xác LVĐ và quãng nghỉ trong huấn luyện SMTĐ môn Pencak Silat là điều kiện tiên quyết giúp quá trình huấn luyện có hiệu quả cao.
Để xác định chính xác LVĐ trong quá trình huấn luyện cần chú ý cả về khối lượng, cường độ và quãng nghỉ trong mỗi bài tập, mỗi buổi tập và từng giai đoạn, chu kỳ huấn luyện cũng như tùy thuộc vào từng phương pháp sử dụng trong mối giai đoạn, quá trình huấn luyện [48], [51], [71].
Nhìn chung, LVĐ và quãng nghỉ trong huấn luyện SMTĐ môn Pencak Silat có thể được xác định như sau:
SMTĐ là năng lực phát huy sức mạnh cơ bắp trong thời gian ngắn nhất Đây là đặc trưng tổng hợp của sức mạnh tốc độ. Nâng cao SMTĐ chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố sức mạnh và tốc độ.
Để phát triển SMTĐ cơ bản đòi hỏi không ngừng nâng cao tốc độ đồng thời kết hợp nâng cao sức mạnh tối đa, sử dụng các phương pháp huấn luyện đặt biệt để phát triển sức mạnh động lực thành sức mạnh tốc độ, nâng cao đồng thời cả sức mạnh và sức nhanh theo nhu cầu thi đấu của môn Pencak Silat.
Khi phân bổ LVĐ và quãng nghỉ trong huấn luyện SMTĐ cho VĐV Pencak Silat cần chú ý:
Về cường độ: Phải xác định cường độ phù hợp, không quá lớn để phát huy được tốc độ động tác, cường độ bài tập dùng để phát triển SMTĐ thường khoảng từ 65-85% cường độ tối đa [48], [51], [71].
Về khối lượng: Nguyên tắc chung là tốc độ động tác phải nhanh nên số lần lặp lại động tác không quá nhiều đảm bảo cho hoàn thành động tác với sự co rút của cơ nhanh bột phát…
Sử dụng trọng lượng phụ (phụ tải) giúp nâng cao sức mạnh, tuy nhiên, trọng lượng phụ tải phải phù hợp để có thể thực hiện kỹ thuật với tốc độ cao.
Trọng lượng phụ sử dụng có thể từ 30-50% trọng lượng tối đa (cơ thể có khả năng khắc phục được), tức là vừa phát triển sức mạnh lại thêm huấn luyện SMTĐ làm công suất sinh công của cơ đạt được tối đa. Trong thực tiễn thể thao thường sử dụng phương pháp này để nâng cao SMTĐ.
Số lần lặp lại: Mỗi tổ lặp lại từ 5-10 lần, số tổ lặp lại từ 3-5 tổ [48], [51],
[71].
Ngoài ra trong huấn luyện SMTĐ phải chú ý đến cách chuyển hóa sức
mạnh vào VĐV nên động tác thực hiện phải thành thục, lựa chọn các bài tập mà
VĐV không bị phân tán tư tưởng về việc thực hiện động tác; các bài tập phải tạo sự hưng phấn cao, phát lực đột ngột, nhanh và sát với điều kiện vận động và thi đấu môn Pencak Silat.
Thời gian duy trì bài tập: Cố gắng hoàn thành mỗi bài tập với tốc độ nhanh nhất, thời gian duy trì bài tập không quá dài.
Thời gian nghỉ giữa mỗi tổ tập luyện: Nên sử dụng khoảng 3 phút (hơn hay kém tùy khối lượng và cường độ của bài tập), cần chú ý: Nếu thời gian nghỉ quá dài sẽ làm giảm hưng phấn của người tập, hiệu quả tập luyện sẽ kém hơn, tuy nhiên, nếu thời gian nghỉ không đủ sẽ làm thay đổi mục đích của bài tập.
Phân phối LVĐ và quãng nghỉ trong huấn luyện VĐV Pencak Silat còn chần chú ý tới các giai đoạn huấn luyện và các chu kỳ nhỏ trong chu kỳ huấn luyện năm. Các phương pháp huấn luyện phải thay đổi theo giai đoạn huấn luyện, thường bắt đầu bằng giai đoạn phát triển sức mạnh chung, tới phát triển sức mạnh tối đa, và tiếp theo là phát triển SMTĐ.
Tóm lại, khi sắp xếp lượng vận động và quãng nghỉ trong huấn luyện SMTĐ môn Pencak Silat cần chú ý: Sử dụng cường độ từ 65-85% cường độ tối đa; Trọng lượng phụ từ 30-50% trọng lượng tối đa cơ thể có thể khắc phục; Số lần lặp lại: từ 5-10 lần; Quãng nghỉ: Sử dụng quãng nghỉ vượt mức, đảm bảo cơ thể vẫn hưng phấn và cơ thể đã hồi phục (hoặc hồi phục vượt mức) các chức năng tuần hoàn, hô hấp…, tính chất nghỉ ngơi: nghỉ ngơi tích cực.
1.5. Đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi 16-18
1.5.1. Đặc điểm về mặt tâm lý
Ở lứa tuổi này thế giới quan tự ý thức, tính cách, đặc biệt hướng về tương lai đầy đủ nhu cầu sáng tạo mong muốn cho cuộc sống tốt đẹp. [58]
- Hứng thú đã phát triển rò rệt và hoàn thiện mang tính chất bền vững sâu sắc phong phú. Hứng thú rất năng động sẵn sàng đi vào lĩnh vực mình ưa thích do thái độ tự giác tích cực trong cuộc sống hình thành tư động cơ đúng đắn.
- Tình cảm đi đến hoàn thiện, biểu hiện các nét yêu quý tôn trọng mọi người, cư xử đúng mực, biết kính trên nhường dưới…
- Trí nhớ phát triển hoàn thiện, đảm bảo nhớ một cách có hệ thống, logic tư duy chặt chẽ.