Nồng Độ Dioxin Trong Mẫu Đất Quan Trắc Được Tại Sân Bay Đà Nẵng

40


Bảng 3.6. Nồng độ dioxin trong mẫu đất quan trắc được tại sân bay Đà Nẵng



KH

∑ Nồng độ dioxin tuyệt đối ng/kg

TCDD

PeCDD

HxCDD

HpCDD

OCDD

TCDF

PeCDF

HxCDF

HpCDF

OCDF

TEQ

VN58

361000

2000

972

246

2,5

202

88

20

9,1

0,13

362165.1

VN59

330000

1670

761

219

2,4

146

83

17

9,5

0,14

330969.8

VN63

1190

3,6

0,49


0,02




0,02


1191.8

VN68

36800

120

37

11

0,79

20

0,35

0,34

0,68

0,01

36866.0

VN69

165000

1130

322

107

2,8

53

33

4,8

4,2

0,07

165620.3

VN75

5100

72

0,97

1,1

0,20

26


0,20

0,29

0,01

5138.7

VN78

106000

251

19

4,1

0,31

46

17


0,86

0,01

106140.6

VN83

61500

406

39

9,1

1,1

207

1,6

4,5

0,83

0,01

61728.5

VN70

3540

81

72

20

2,4

8,0

4,1

0,91

0,74

0,01

3590.8

VN74

63200

896

276

73

1,5

127

62

9,3

4,2

0,04

63720.2

VN43

136

28

2,1

1,0

0,66

0,62



0,02


150.3

VN47

6080

333

60

16

0,34

20

6,9

2,2

0,78

0,01

6258.1

VN48

3840

210

55

15

0,35

20

4,7

1,1

0,61

0,01

3955.0

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.

(Nguồn: Bộ TN&MT, 2010)


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn


Phân tích bảng 3.6 có thể thấy một số đặc điểm cơ bản về ô nhiễm dioxin ở sân bay Đà Nẵng như sau:

Thứ nhất, nồng độ dioxin dao động trong khoảng rất rộng (0,01 - 361000 ng/kg). Trong đó, nồng độ TCDD ghi nhận được ở mẫu đất thuộc khu trộn nạp (VN58) đạt giá trị tối cao là 361.000 ng/kg, điều này chứng minh cho sự phức tạp về phân bố ô nhiễm cũng như mức độ ô nhiễm tại các vị trí khác nhau thuộc sân bay Đà Nẵng.

Phân tích còn cho thấy, tần suất xuất hiện các cấu tử khác nhau của dioxin xuất hiện tương đối đồng đều ở các mẫu VN58, VN59 ,VN68, VN69, VN83, VN74, VN47, VN48 (8/13 mẫu).

Thứ hai: Đa số các mẫu đất được phân tích đều có hàm lượng TCDD là cấu tử có độc tính mạnh nhất (hệ số TEF = 1), đều xuất hiện với nồng độ rất cao ( 136 - 3610000 ng/kg).

ng TEQ

400000.0

350000.0

300000.0

250000.0

200000.0

150000.0

100000.0

50000.0

0.0

362099.9 362165.1

88250.5

88268.9

18.4

150.20.0004 150.3

Min Mean Max

.2

65

PCDD PCDF

WHO - TEQ


Hình 3.6. Biểu đồ thể hiện nồng độ ng TEQ (Min, Mean, Max) của PCDD, PCDF, WHO - TEQ


Thứ ba: Sau khi tính toán nồng độ ng TEQ tương đương để xác định mức độ độc hại chúng tôi nhận thấy tổng nồng độ ng TEQ tương đương của PCDD lớn nhất - nhỏ nhất - trung bình lần lượt là 362.099,9 - 150.2 - 88.250,5; đối với PCDF lần lượt là 65,20 - 0,0004 -18,40; đối với tổng nồng độ lần lượt là 362.165,1 - 150,3 - 88.268,9.

(hình 3.6).

Thứ tư: Trong 13 mẫu đất được lấy tại các vị trí khác nhau thuộc các điểm nóng tại sân bay Đà Nẵng thì có 12/13 (chiếm tỉ lệ 92,31 %) mẫu có tổng nồng độ TEQ lớn hơn tiêu chuẩn tối đa cho phép trên thế giới. Trong đó, mẫu VN68 là mẫu lấy tại khu vực đáy bồn chứa trước đây vượt tiêu chuẩn tối đa nói trên khoảng 368 lần và nhỏ nhất là mẫu VN63 khoảng 1,2 lần, duy nhất mẫu VN43 nhỏ hơn tiêu chuẩn tối đa cho phép.

Hình 3 7 Biểu đồ thể hiện so sánh sự thay đổi nồng độ TCDD và sự thay 1

Hình 3.7. Biểu đồ thể hiện so sánh sự thay đổi nồng độ TCDD và sự thay đổi nồng độ TEQ trong các mẫu đất lấy tại sân bay Đà Nẵng

- Kết quả phân tích hàm lượng tồn lưu ô nhiễm dioxin trong mẫu trầm tích thuộc các khu vực lan truyền trong sân bay Đà Nẵng:

Để đánh giá mức độ lan truyền và tồn lưu ô nhiễm dioxin tại sân bay Đà Nẵng, nghiên cứu đã tiến hành lấy các mẫu trầm tích bề mặt của một số khu vực hồ thuộc sân bay. Kết quả phân tích nồng độ tồn lưu ô nhiễm dioxin trong trầm tích được thể hiện cụ thể qua bảng 3.7.


Bảng 3.7 cho thấy các đặc điểm cơ bản về tồn lưu ô nhiễm và lan truyền ô nhiễm dioxin tai sân bay Đà Nẵng như sau:

Thứ nhất: Các mẫu trầm tích bề mặt được lấy tại các hồ thuộc sân bay Đà Nẵng thì 100% các mẫu phân tích đều xuất hiện ô nhiễm dioxin. Do vậy, chắc chắn đã có sự lan truyền dioxin và tồn lưu dioxin trong trầm tích tại các hồ này. Có thể nhận thấy nguy cơ xâm nhập dioxin thông qua trầm tích, các loài thủy sinh vật để xâm nhập, tích lũy theo chuỗi thức ăn.

Thứ hai: Nồng độ tồn lưu dioxin trong trầm tích dao động trong khoảng 0,10 ng/kg (OCDF/ VN53) - 6240 ng/kg (TCDD/VN53) tùy thuộc vào mẫu và từng cấu tử. giá trị TEQ tương đương (Min - Mean - Max) lần lượt của PCDD: 4,9 - 2044,2 - 6335,5; PCDF là: 0,0012 - 11,4 - 34,8. Như vậy, qua những số liệu được xử lý và phân tích này có thể nhận thấy đối với các mẫu trầm tích thuộc các khu vực tích lũy ô nhiễm do lan truyền thì PCDD vẫn đóng vai trò chủ yếu.

Thứ ba: Nồng độ TCDD (có hệ số độc hại TEF = 1) xuất hiện ở tất cả các mẫu phân tích và dao động từ 4,5 ng/kg (VN23) - 6240 ng/kg (VN53).

Thứ tư: Trong 9 mẫu trầm tích được lấy tại các vị trí khác nhau của Hồ Sen, là hồ chứa nước chảy tràn từ bề mặt sân bay cũng như từ hệ thống thoát nước của sân bay Đà Nẵng thì thống kê cho thấy: có 4/9 mẫu (chiếm tỉ lệ khoảng 44,44%) số mẫu phân tích có tổng giá trị TEQ vượt tiêu chuẩn giới hạn tối đa cho phép trên thế giới. Trong các mẫu đó (VN32, VN52, VN53, VN55) thì mẫu lớn nhất là VN53 đạt 6370,3 (gấp 6,3 lần), mẫu nhỏ nhất là 2799,6 (VN32), gấp 2.9 lần. Các mẫu còn lại bao gồm: VN30, VN31, VN32, VN21, VN23 đều có tổng giá trị TEQ nhỏ hơn giá trị giới hạn tối đa cho phép của quốc tế.

44


Bảng 3.7. Nồng độ dioxin trong mẫu trầm tích quan trắc được tại sân bay Đà Nẵng




KH

∑ Nồng độ dioxin tuyệt đối ng/kg

TCDD

PeCDD

HxCDD

HpCDD

OCDD

TCDF

PeCDF

HxCDF

HpCDF

OCDF

TEQ

VN30

253



17

2,6

2,2

4,2

4,8

2,3

0,02

253,3

VN31

191



1,3

0,17




0,13


191,0

VN32

2750

63

31

31

3,19

70

13

11

4,3

0,09

2799,6

VN32

61



1,1

0,11




0,12


61,0

VN52

5440

125

61

72

7,2

182

25

20

9,4

0,19

5542,1

VN53

6240

177

65

50

4,3

242

18

15

5,9

0,10

6370,3

VN55

3190

101

42

35

3,7

112

14

11

4,8

0,09

3264,4

VN21

12

1,5

1,5

1,9

0,75

0,24

0,66

0,60

0,12


13,3

VN23

4,5

0,64

0,63

0,77

0,27

0,10

0,29

0,26

0,06


5,1

(Nguồn: Bộ TN&MT, 2010)



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

45


3.2.1.2. Đánh giá mức độ tồn lưu tại sân bay Biên Hòa

Các kết quả nghiên cứu và số liệu thống kê từ các nguồn khác nhau đều cho thấy sân bay Biên Hòa là điểm lưu giữ và trung chuyển lượng chất phát quang lớn nhất trong chiến tranh hóa học mà quân đội Mỹ đã tiến hành ở Việt Nam (1961 - 1971). Các kết quả nghiên cứu cũng ghi nhận những vụ rò rỉ chất phát quang với số lượng hàng chục nghìn lít tại địa điểm này. Do vậy, bước đầu có thể nhận định đây là điểm nóng về tồn lưu ô nhiễm dioxin với nồng độ ô nhiễm đặc biệt cao. Từ các dữ liệu trong chiến tranh và kết quả khảo sát của một số nghiên cứu trước đây, có thể chia khu vực ô nhiễm dioxin tại sân bay Biên Hòa thành 3 phân khu, bao gồm: phân khu trước đây tiến hành các hoạt đông nạp rửa, phân khu bồn chứa chất phát quang, phân khu phía Nam và Tây Nam của sân bay được sử dụng trong chiến dịch thu gom Pacer Ivy.

- Phân khu nạp, rửa chất phát quang: Đây là khu vực tiến hành toàn bộ các hoạt động nạp chất phát quang lên máy bay và tẩy rửa máy bay sau khi phun rải. Kêt quả tính toán sơ bộ cho thấy, đã có khoảng 184.855 thùng chất phát quang được nạp lên máy bay và hàng nghìn lượt máy bay được tẩy rửa tại vị trí này.

- Phân khu trước đây là bồn chứa chất phát quang: đây chính là địa điểm lần lượt lưu giữ khoảng 190.855 thùng chất phát quang. Bênh cạnh đó, số liệu ghi nhận được còn cho thấy đã từng xảy ra sự cố rò rỉ khoảng 38.000 lít chất phát quang có chứa dioxin tại vị trí này.

- Khu vực ô nhiễm do lan tỏa: bao gồm nhiều vị trí khác nhau tiếp giáp hoặc tiếp nhận dòng chảy từ các khu vực được đánh giá ô nhiễm nghiêm trọng. Bao gồm: các khu vực mương nước chảy, các khu vực ruộng, các hồ trong và lân cận sân bay. Các khu vực này có thể bị ô nhiễm ở mức độ nhẹ hơn. Tuy nhiên, đây là các khu vực có khả năng tạo nên tích lũy sinh học dioxin thông qua chuỗi thức ăn do dioxin bám vào thực vật và tồn lưu trong thủy sinh vật bị nhiễm dioxin.

Kết quả khảo sát của một số nghiên cứu cơ bản cho thấy, đối với các khu vực ô nhiễm nghiêm trọng nồng độ dioxin nằm trong khoảng vài chục nghìn đến hàng triệu ppm.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn



46


Bảng 3.8. Nồng độ dioxin trong mẫu đất quan trắc được tại sân bay Biên Hòa




KH

∑ Nồng độ dioxin tuyệt đối ng/kg

TCDD

PeCDD

H`xCD

D

HpCDD

OCDD

TCDF

PeCDF

HxCDF

HpCDF

OCDF

TEQ

BH-S1

39



13

168




2,0

2,3

39,3

BH-S2

159



45

501




8,4

10

160,0

BH-S3

181

9,1


6,3

34

5,3





186,2

BH-S4

281



7,1

46






281,1

BH-S5

5072992

32529

64177

187334

302225

127712

4373

4834

13255

17509

5.113.440,9

BH-S6

75768

1211

477

1181

2996

1377

70

71

153

135

76617,5

BH-S7

2252

25

23

68

154

42

1,8


4,9

2,8

2272,8

BH-S8

873

46

13

32

94

20





899,7

BH-S9

1852

7,8


6,6

27

31

12

2,5



1865,3

BH-S10

24074

94

75

34

182

423

50

27

46

44

24199,5

BH-S11

1513

100

12

100

945

23

2,4

4,7

11

12

1570,2

57

(Nguồn: Bộ TN&MT, 2010)


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

47


- Kết quả phân tích hàm lượng tồn lưu dioxin trong mẫu bùn, đất

Để đánh giá chính xác nồng độ dioxin tồn lưu trong môi trường đất tại địa điểm sân bay Biên Hòa và khu vực lân cận chịu ảnh hưởng của quá trình lan truyền ô nhiễm, chúng tôi đã tiến hành lấy mẫu đất tại các khu vực khác nhau của sân bay.

Trong đó, tập trung chủ yếu vào các khu vực trước đây là nền kho chứa, khu vực nạp rửa, khu vực thu gom trong chiến dịch Pacer Ivy. Kết quả phân tích nồng độ dioxin (PCDD - PCDF) được trình bày qua bảng 3.8. Kết quả phân tích mẫu đất lấy tại các vị trí trước đây là các khu vực để thùng chứa chất phát quang thuộc sân bay Biên Hòa được thể hiện qua bảng 3.8. Qua bảng này, chúng tôi nhận thấy có một số đặc điểm liên quan đến nồng độ tồn lưu ô nhiễm dioxin tại sân bay Biên Hòa như sau:

Thứ nhất: Bảng 3.8. trình bày kết quả phân tích mẫu đất và mẫu trầm tích tại các vị trí được xác định là nguồn gây ô nhiễm chính của sân bay Biên Hòa. Trong đó, nồng độ dioxin dao động trong khoảng rất lớn (từ 39,3 đến 5.113.440,9). 6/11 mẫu đất được phân tích có nồng độ dioxin vượt tiêu chuẩn cho phép của WHO.

Thứ hai: Nồng độ dioxin tính theo đạt giá trị cao nhất tại mẫu BH-S5 là 5.113.440,9 ng/kg và tại mẫu này nồng độ TCDD cũng tương ứng đạt được giá trị cao nhất là 5072992 ng/kg.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Xem tất cả 85 trang.

Ngày đăng: 11/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí