vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, là trung gian tài chính, ngân hàng chủ yếu huy động vốn từ các thành phần kinh tế, vì vậy nợ là phần vốn chiếm tỷ lệ lớn nhất, thường từ 80-90% tổng vốn kinh doanh còn vốn tự có của ngân hàng lại chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (<10%). Như vậy, về phương diện vốn hoạt động, NHTMCP kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác mà ngân hàng không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng với những điều kiện ràng buộc nhất định.
Bốn là: Một số hoạt động cơ bản của ngân hàng gắn liền với doanh nghiệp
Khách hàng là đối tượng chính trong hoạt động kinh doanh của NHTMCP. Nếu khách hàng có tiềm lực tài chính lớn thì đó là điều kiện để ngân hàng huy động được nhiều, đồng thời việc cho vay đầu tư sẽ có hiệu quả. Thông qua chức năng huy động vốn và phân phối vốn của mình, tài chính NHTMCP đã điều tiết vốn, chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh bình thường không bị gián đoạn. Chính vì vậy, tư cách, năng lực hoạt động và sức mạnh tài chính của doanh nghiệp sẽ là yếu tố quyết định đến năng lực và sức mạnh tài chính của NHTMCP. Nếu doanh nghiệp đầu tư bị thua lỗ, tài sản nợ tài chính gia tăng, kết quả là các khoản tín dụng không thu hồi được sẽ kéo theo tình trạng tài chính của ngân hàng không lành mạnh.
Năm là: Tài chính NHTMCP luôn tiềm ẩn rủi ro lớn
Xuất phát từ phương thức “đi vay để cho vay”, NHTMCP tiến hành các hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động của khách hàng. Điều này đồng nghĩa với việc tài chính NHTMCP có thể sẽ phải gánh chịu những rủi ro rất lớn từ cả hai phía: người cho ngân hàng vay và người đi vay của ngân hàng. Nếu huy động được vốn mà không cho vay được sẽ gây nên tình trạng ứ đọng vốn, chi phí kinh doanh cao vì ngân hàng vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền. Dòng tiền không vận động sẽ không tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, thậm chí có thể lỗ. Hoặc nếu cho vay mà không thu hồi được nợ thì không những vốn tự có của ngân hàng mất mà ngân hàng còn có nguy cơ không hoàn trả được số tiền đã huy động của khách hàng dẫn đến mất khả năng thanh toán. Như vậy nếu khách hàng gặp rủi ro tài chính thì lập tức tài chính NHTMCP sẽ phải gánh chịu. Điều quan trọng là rủi ro tài chính NHTMCP có ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, có nguy cơ lây lan làm suy giảm đến cả hệ thống ngân hàng, đẩy nền kinh tế vào suy thoái.
2.2. Tổng quan về hệ thống chỉ tiêu tài chính của Ngân hàng thương mại cổ phần
2.2.1. Bản chất, mục tiêu của hệ thống chỉ tiêu tài chính
2.2.1.1. Bản chất
Hệ thống chỉ tiêu tài chính là nội dung cơ bản, cốt lõi của phân tích tài chính trong các doanh nghiệp. Thông qua phân tích tài chính sẽ cung cấp thông tin cho các đối tượng về bức tranh tài chính của doanh nghiệp, từ đó đánh giá cấu trúc tài chính, khả năng thanh toán, hiệu quả của từng hoạt động và đưa ra các quyết định phù hợp (Trần Quý Liên, 2011).
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về chỉ tiêu tài chính:
Nguyễn Năng Phúc (2011a) cho rằng hệ thống chỉ tiêu tài chính là một hệ thống các chỉ tiêu nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời gian hoạt động nhất định. Trên cơ sở đó, giúp các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra các quyết định chuẩn xác trong quá trình kinh doanh.
Theo quan điểm của Mabwe & Robert Webb (2010) thì hệ thống chỉ tiêu tài chính có thể được hiểu như một tổng thể các công cụ cho phép đánh giá tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, giúp cho việc ra quyết định quản trị và đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp một cách chính xác.
Đồng quan điểm với Mabwe & Robert Webb (2010), Marie L. (2012) quan niệm rằng chỉ tiêu tài chính là công cụ hữu ích giúp các nhà quản lý doanh nghiệp và các nhà đầu tư phân tích và so sánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản mục trên BCTC của doanh nghiệp. Chúng là một công cụ giúp phân tích tình hình tài chính của một công ty, một ngành hoặc 1 lĩnh vực kinh doanh.
Trần Quý Liên (2011) nhận định chỉ tiêu tài chính là một phạm trù kinh tế có nội dung tương đối ổn định, thể hiện hiệu quả kinh doanh và cấu trúc tài chính của doanh nghiệp. Hệ thống chỉ tiêu tài chính là một bảng tổng hợp các chỉ tiêu tài chính nhằm phân tích tình hình tài chính phục vụ cho các đối tượng có liên quan.
Nói đến khía cạnh sử dụng hệ thống chỉ tiêu tài chính nhằm phân tích tài chính. Phùng Thị Lan Hương (2015) đã khẳng định rằng phân tích tài chính ngân hàng là việc sử dụng các công cụ và kĩ thuật phân tích đối với các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm xác định vị thế tài chính, phân tích năng lực tài chính của ngân hàng trong quá khứ, hiện tại và đánh giá năng lực tài chính trong tương lai. Phân tích tài chính các NHTM Việt Nam được đánh giá chủ yếu trên hệ thống các chỉ tiêu phản ánh năng lực tài chính của NHTM.
Tổng hợp những quan điểm trên của các nhà khoa học trong nước và trên thế giới, tác giả cho rằng: “Hệ thống chỉ tiêu tài chính NHTMCP là công cụ dùng để phân tích tình hình tài chính, đánh giá năng lực tài chính của NHTMCP trong quá khứ và hiện tại, từ đó dự đoán tình hình tài chính của NHTMCP trong tương lai, qua đó giúp các đối tượng quan tâm đưa ra các quyết định kinh tế phù hợp với lợi ích của họ”.
2.2.1.2. Mục tiêu
Có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của NHTMCP. Mỗi đối tượng quan tâm đến những khía cạnh khác nhau về tình hình tài chính của NHTMCP. Vì vậy, mục tiêu sử dụng các chỉ tiêu tài chính cụ thể với từng đối tượng là khác nhau.
Bảng 2.1. Mục tiêu sử dụng hệ thống chỉ tiêu tài chính của
các đối tượng liên quan
Mục tiêu phân tích | Mục tiêu cuối cùng | Nguồn | |
Nhà quản trị ngân hàng | Nhằm đánh giá quá trình quản lý trong một thời kì thông qua tất cả các khía cạnh tài chính của ngân hàng như tình hình huy động vốn, tình hình kinh doanh, quản trị rủi ro. | - Điều chỉnh các quyết định cho phù hợp với thực tế của ngân hàng. - Phân tích tài chính còn là công cụ để các nhà quản trị kiểm tra, kiểm soát các hoạt động. | Hoàng Thị Thu Hường (2019); Ngô Kim Phượng (2010); Marie L (2012). |
Nhà đầu tư | Nhằm đánh giá tình hình kinh doanh, mức độ rủi ro, chính sách phân phối lợi nhuận. | Định giá cổ phiếu và ra quyết định đầu tư. | Hoàng Thị Thu Hường (2019); Ngô Kim Phượng (2010); Marie L (2012). |
Người lao động trong NHTMCP | Nhằm đánh giá tình hình kinh doanh, triển vọng phát triển trong tương lai của NHTMCP. | Giúp người lao động định hướng việc làm. | Hoàng Thị Thu Hường (2019); Ngô Kim Phượng (2010); |
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Các Công Trình Nghiên Cứu Về Hệ Thống Chỉ Tiêu Tài Chính Thông
- Tổng Quan Các Công Trình Nghiên Cứu Về Sử Dụng Hệ Thống Chỉ Tiêu Tài Chính Của Mô Hình Camel Trong Đánh Giá Năng Lực Tài Chính Của Các Nhtmcp
- Tổng Quan Về Tài Chính Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
- Hệ Thống Chỉ Tiêu Phản Ánh Khả Năng Thanh Toán
- Hệ Thống Chỉ Tiêu Phân Tích Tình Hình Cổ Phiếu Của Nhtmcp
- Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Các Chỉ Tiêu Tài Chính Nhằm Đánh Giá Năng Lực Tài Chính Nhtmcp
Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.
Mục tiêu phân tích | Mục tiêu cuối cùng | Nguồn | |
Người gửi tiền (khách hàng) | Nhằm đánh giá khả năng thanh toán, tình hình kinh doanh, mức độ rủi ro tài chính của ngân hàng. | Phục vụ việc ra quyết định gửi tiền. | Hoàng Thị Thu Hường (2019); Ngô Kim Phượng (2010); |
Cơ quan quản lý | Nhằm giám sát các | Điều chỉnh các | Hoàng Thị Thu |
Nhà Nước | hoạt động của | quy định để tạo | Hường (2019); |
NHTMCP. Qua phân | điều kiện cho | Nguyễn Thị Cẩm | |
tích tài chính | NHTMCP phát | Thuý (2013). | |
NHTMCP, cơ quan | triển đồng thời | ||
quản lý Nhà Nước | thực hiện được | ||
thấy được thực trạng | mục tiêu của | ||
năng lực tài chính, tác | chính sách trong | ||
động của chính sách | mỗi thời kì. | ||
đến năng lực tài chính | |||
của ngân hàng | |||
Ủy ban chứng | Đánh giá được sức | Phục vụ việc ra | Phạm Trọng Bình |
khoán Nhà Nước | mạnh tài chính của các | các quyết định | (2000); Hoàng Thị |
NHTMCP niêm yết | đảm bảo sự phát | Thu Hường (2019); | |
cũng như chất lượng | triển của thị | Nguyễn Thị Cẩm | |
“hàng hóa” giao dịch | trường như hủy | Thuý (2013). | |
trên thị trường chứng | niêm yết hay cho | ||
khoán. | phép niêm yết bổ | ||
sung |
Nguồn: Tự tổng hợp của tác giả
Tóm lại, mục tiêu phân tích cụ thể đối với các đối tượng khác nhau là khác nhau. Theo nhận định của tác giả luận án, đối với cá nhân như các nhà quản trị ngân hàng, nhà đầu tư, người lao động hay khách hàng sử dụng hệ thống chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá những khía cạnh tài chính của NHTMCP gắn với lợi ích của cá nhân phục vụ cho việc ra quyết định. Còn đối với các tổ chức như Cơ quan quản lý Nhà nước hay Ủy ban chứng khoán Nhà Nước sử dụng hệ thống chỉ tiêu tài chính để đánh giá thực trạng năng lực tài chính nhằm cung cấp một bức tranh tổng quan về “sức khoẻ” của NHTMCP phục vụ cho
việc ra các quyết định mang tính chất vĩ mô toàn ngành ngân hàng. Chính vì vậy, có thể hiểu rằng, các đối tượng sử dụng hệ thống chỉ tiêu tài chính nhằm mục đích đánh giá các khía cạnh tài chính và tổng thể năng lực tài chính của các NHTMCP mà họ quan tâm, phục vụ cho việc ra các quyết định kinh tế.
2.2.2. Hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính của các Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMCP là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, có những đặc thù riêng trong hoạt động kinh tế tài chính. Cũng giống như các doanh nghiệp phi tài chính, các NHTMCP luôn phải đối đầu với những thách thức của thị trường cạnh tranh đầy biến động. Thêm vào đó, kinh doanh tiền tệ là loại hình đặc biệt, có liên quan đến hầu hết các lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Để có thể tồn tại và phát triển được, các NHTMCP phải có chiến lược kinh doanh đúng đắn kết hợp với một sự quản lý linh hoạt và hiệu quả. Để đạt được điều đó, các NHTMCP cần có các thông tin đã được xử lý. Hoạt động phân tích tài chính giúp các nhà quản lý nắm bắt được các thông tin cần thiết cho quá trình điều hành của mình. Đồng thời cũng cung cấp những thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư ra các quyết định đúng đắn. Chính vì thế, phân tích tài chính NHTMCP hết sức cần thiết cho công tác quản trị NHTMCP, cho các nhà đầu tư và các đối tượng sử dụng thông tin kinh tế. Tập hợp nghiên cứu từ trước đến nay của các tác giả tiền nhiệm (Hoàng Thị Thu Hường, 2019; Marie L., 2012; Nguyễn Năng Phúc, 2011a; Nguyễn Ngọc Quang, 2011; Nguyễn Thu Hằng, 2012) về hệ thống chỉ tiêu tài chính của các NHTMCP, hệ thống chỉ tiêu tài chính được sử dụng trong các NHTMCP bao gồm:
2.2.2.1. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh cấu trúc tài chính
Việc phân tích chỉ tiêu phản ánh cấu trúc tài chính liên quan chặt chẽ và mật thiết với nội dung phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn, do cơ cấu tài sản phản ánh trình độ sử dụng vốn của nhà quản lý. Phân bổ vốn vào tài sản hợp lý thì sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn. Chính vì vậy, phân tích chỉ tiêu phản ánh cấu trúc tài chính giúp cho các nhà quản trị ngân hàng có cơ sở để đánh giá mặt mạnh, mặt yếu của ngân hàng mình, từ đó hoạch định chiến lược kinh doanh cho hiệu quả. Chỉ tiêu phản ánh cấu trúc tài chính được thể hiện chủ yếu qua các chỉ tiêu sau:
a. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô, cơ cấu tài sản
Nhóm chỉ tiêu này được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như:
- Quy mô tài sản: tập trung vào các khoản mục lớn như tổng tài sản, tổng dư nợ, đầu tư góp vốn liên doanh, TSCĐ,…
- Kết cấu tài sản (gồm tỷ trọng của từng khoản mục trong tổng tài sản)
- Sự tăng trưởng của tài sản (gồm tốc độ tăng, giảm của các khoản mục so với kỳ trước, so với kế hoạch,…).
- Cơ cấu tài sản của NHTM là tỷ trọng của từng loại tài sản chiểm trong tổng tài sản. Phân tích cơ cấu tài sản là sự so sánh cơ cấu tài sản giữa các kỳ kinh doanh, kể cả số tuyệt đối và tương đối. Bởi vậy, để phân tích cơ cấu tài sản trong các NHTM, trước hết cần tính và phân tích các chỉ tiêu tổng quát sau đây:
Tỉ trọng của từng bộ phận tài = Giá trị của từng bộ phận tài sản X 100 (2.1)
sản chiếm trong tổng TS (%)
Tổng TS
Trên cơ sở xem xét sự biến động về tỉ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng TS sẽ giúp quản trị các NHTM đánh giá khái quát tình hình phân bổ (sử dụng vốn) đã hợp lý chưa.
b. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô, cơ cấu nguồn vốn
Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô nguồn vốn tập trung vào các khoản mục lớn như tổng nguồn vốn, các khoản nợ phải trả (tiền gửi của khách hàng, tiền vay…) hay nguồn vốn chủ sở hữu. Bên cạnh đó nhóm chỉ tiêu phản ánh kết cấu nguồn vốn cũng có vai trò quan trọng trong nhóm chỉ tiêu này, bao gồm: tỷ trọng của nợ phải trả, của vốn chủ sở hữu… trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng của nguồn vốn: gồm tốc độ tăng, giảm của các khoản mục so với kỳ trước, so với kế hoạch,…
Việc huy động và sử dụng tiết kiệm vốn là hai mặt của một vấn đề, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các NHTM. Phân tích cơ cấu nguồn vốn trong các NHTM, trước hết cần tính chỉ tiêu tổng quát sau đây:
Tỉ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm =
trong tổng NV
Giá trị của từng bộ phận nguồn vốn Tổng NV
X 100 (2.2)
c. Nhóm chỉ tiêu phản ánh mối liên hệ giữa tài sản và nguồn vốn
Việc phân tích các chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn cho phép nhà quản trị đánh giá khách quan chính sách về huy động và sử dụng vốn trong các NHTM. Để phân tích mối liên hệ giữa tài sản và nguồn vốn trong các NHTM, trước hết cần phải tính các chỉ tiêu sau:
- Hệ số nợ phải trả so với tổng TS
Hệ số nợ phải trả so với tổng TS
Nợ phải trả (2.3)
=
Tổng TS
Chỉ tiêu trên phản ánh, cứ 1 đồng tổng tài sản thì có bao nhiêu đồng nợ phải trả. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mức độ phụ thuộc vào các khoản nợ phải trả càng lớn.
Song, do tính chất đặc thù hoạt động kinh doanh trong các NHTM nên chỉ tiêu này
thường rất lớn so với DN sản xuất kinh doanh.
- Hệ số tổng tài sản so với vốn chủ sở hữu: Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
Hệ số tổng TS
so với vốn chủ sở hữu
Tổng TS
= (2.4)
Vốn chủ sở hữu
(Hệ số vốn cho khách hàng vay so với tổng số vốn huy động)
d. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô, cơ cấu nguồn vốn huy động và cơ cấu tín dụng
Nhóm chỉ tiêu này thường được phân theo thời gian: không kỳ hạn, có kỳ hạn (ngắn, trung và dài hạn), theo ngành nghề, theo loại tiền (Việt nam đồng, ngoại tệ) hay khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế thông qua tỷ trọng nguồn vốn huy động so với vốn tự có. Các chỉ tiêu này phải đảm bảo đạt yêu cầu so với kế hoạch đã đặt ra.
Hệ thống nhóm chỉ tiêu này cho thấy quy mô, cấu phần của từng danh mục tài sản - nguồn vốn trong tổng tài sản - nguồn vốn, thấy được tỷ lệ tập trung của Ngân hàng đối với từng loại tài sản - nguồn vốn hoặc đối tượng khách hàng, kỳ hạn hay thời gian, hình thức nhất định. Là cơ sở để xác định ảnh hưởng của tài sản đầu tư, nguồn tài trợ và xem xét quyết định chiến lược, chính sách,… đầu tư, huy động vốn có hiệu quả. Chúng phản ánh những biến động trong tài sản - nguồn vốn (so với kỳ trước, so với kế hoạch, so với các Tổ chức Tín dụng trên cùng địa bàn, so với xu hướng chung,…), tìm ra nguyên nhân của sự thay đổi đó, tác động của những thay đổi này tới hiệu quả hoạt động kinh doanh. Từ đó xác định cơ cấu hợp lý, tìm ra những giải pháp điều chỉnh.
2.2.2.2. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng trưởng về huy động và đầu tư vốn
Hầu hết các ngân hàng thương mại khi tiến hành phân tích tài chính đều quan tâm đến nội dung này. Đây là một nội dung phản ánh rõ nét nhất sự tăng trưởng về qui mô của ngân hàng. Phân tích chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng trưởng về huy động và đầu tư vốn là hết sức quan trọng đối với các ngân hàng. Các chỉ tiêu dùng để phân tích bao gồm:
a. Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này giúp cho nhà quản trị xác định được quy mô, sự tăng trưởng của hoạt động tín dụng giữa kỳ này so với kỳ trước hoặc so với mục tiêu dự kiến. Tốc độ
tăng trưởng tín dụng đánh giá năng lực mở rộng hoạt động tín dụng, mang lại nguồn thu nhập trong hiện tại và tương lai của ngân hàng. Theo quy định, khi phân tích tốc độ tăng trưởng cần xem xét đến việc đảm bảo tuân thủ các giới hạn về hạn mức tín dụng đã đề ra trong từng thời kỳ.
Tốc độ tăng dư nợ tín dụng =
Dư nợ tín dụng kỳ này - Dư nợ tín dụng kỳ trước
x 100 (2.5)
Dư nợ tín dụng kỳ trước
b. Tỷ lệ dư nợ tín dụng so với nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này phản ánh tương quan giữa dư nợ tín dụng và nguồn vốn huy động. Cho biết mức độ sử dụng nguồn vốn huy động vào hoạt động cho vay cũng như khả năng cân đối nguồn vốn huy động tại chỗ cho hoạt động tín dụng của chi nhánh. Chỉ tiêu này được thể hiện thông qua tỷ lệ nợ tín dụng so với tổng nguồn vốn huy động.
Tỷ lệ dư nợ tín dụng so với nguồn vốn huy động
Dư nợ tín dụng
=
Nguồn vốn huy động
x 100 (2.6)
- Trường hợp tỷ lệ này > 100, cho biết nguồn vốn huy động tại địa bàn không đủ cân đối dư nợ phát sinh tại chi nhánh hay nói cách khác phải sử dụng, vốn của hệ thống.
- Trường hợp tỷ lệ này ≤ 100, cho biết nguồn vốn huy động trên địa bàn không những cân đối đủ dư nợ phát sinh mà còn hỗ trợ nguồn vốn cho toàn hệ thống.
c. Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung dài hạn
Chỉ tiêu này cho biết đơn vị đã sử dụng bao nhiêu nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn, cụ thể là:
Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung dài hạn
Dư nợ cho vay trung dài hạn từ nguồn vốn ngắn hạn
= x 100 (2.7)
Nguồn vốn ngắn hạn
Nếu tỷ lệ này cao có thể đem lại nguồn thu nhập lớn cho đơn vị do chi phí trả lãi cho các khoản vốn này là thấp, nhưng điều này chưa hẳn đã tốt vì ngân hàng sẽ khó đảm bảo khả năng thanh toán của mình cho những khoản nợ đến hạn hay thanh toán theo yêu cầu của khách hàng. Vì vây, tùy vào tình tình để ngân hàng quyết định mức độ của tỷ lệ này.