nhân tố bên trong được tác giả đề cập đến gồm: Chỉ số an toàn vốn, chất lượng tài sản, hiệu quả quản lý và quản lý tính thanh khoản; các tác động bên ngoài gồm: tỉ lệ tăng trưởng GDP và tỉ lệ lạm phát. Bằng việc khảo sát thực tế 5 ngân hàng tại Kenya và sử dụng các mô hình hồi quy, tác giả đã chỉ ra mối liên hệ giữa năng lực tài chính của ngân hàng và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của ngân hàng. Nghiên cứu thực nghiệm này cho thấy chỉ số an toàn vốn, chất lượng tài sản và hiệu quả quản lý ảnh hưởng đáng kể hiệu suất hoạt động tài chính của các ngân hàng thương mại ở Kenya. Hơn nữa, tỉ lệ tăng trưởng GDP và tỉ lệ lạm phát cũng ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động tài chính của các ngân hàng thương mại Kenya trong thời kỳ nghiên cứu. Các chỉ tiêu còn lại không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể đến khả năng tài chính của các ngân hàng. Nghiên cứu này rất hữu ích trong việc chỉ ra các chỉ tiêu nào là phù hợp và chưa phù hợp để từ đó xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp nhất giúp cho nhà quản lý, nhà đầu tư và các đối tượng sử dụng thông tin phân tích tình hình tài chính trong các ngân hàng thương mại.
G. Mohiuddin (2014) đã sử dụng mô hình Camel vào việc phân tích năng lực tài chính tại 2 ngân hàng lớn nhất Bangladesh giai đoạn 2009-2013. Tác giả tập trung vào việc phân tích 5 yếu tố: phân tích mức độ an toàn vốn; phân tích chất lượng tài sản; phân tích năng lực quản lý; phân tích thu nhập; và phân tích tính thanh khoản tại hai ngân hàng thương mại và so sánh với nhau, đồng thời so sánh với chuẩn mô hình Camel. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, các chỉ số của ngân hàng càng gần so với mô hình Camel thì năng lực tài chính của ngân hàng càng cao và ngược lại.
Ishaq AB và cộng sự (2016) đã vận dụng mô hình Camel vào việc đánh giá năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại tại Pakistan. Mẫu nghiên cứu này là 10 ngân hàng thương mại hoạt động tại Pakistan trong 7 năm (2007-2013). Nghiên cứu sử dụng kết hợp các công cụ thống kê như phân tích hồi quy, phân tích mô tả, và phân tích tương quan để phân tích dữ liệu và giải thích các kết quả. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng vào thời điểm khảo sát, việc vận dụng mô hình Camel vào việc đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Kết quả của nghiên cứu này sẽ rất hữu ích cho việc quản lý các ngân hàng trong ngành ngân hàng của Pakistan. Các nhà đầu tư và các cổ đông cũng có thể đánh giá hoạt động của Ngân hàng để đưa ra các quyết định đầu tư đúng và kịp thời.
Zedan & Daas (2017) cũng nghiên cứu về ứng dụng mô hình Camel để đánh giá năng lực tài chính các ngân hàng thương mại tại Palestine. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tính lành mạnh về tài chính của các ngân hàng thương mại Palestine trong năm 2015 bằng
việc sử dụng mô hình đánh giá Camel. Mô hình Camel cung cấp phương tiện để phân loại ngân hàng dựa trên tình trạng sức khoẻ tổng thể, năng lực tài chính và hoạt động quản lý. Các ngân hàng được duy trì đánh giá dựa trên kết quả hoạt động trong năm lĩnh vực: Sự đầy đủ về vốn, chất lượng tài sản, hiệu quả quản lý, chất lượng thu nhập và tính thanh khoản. Nghiên cứu áp dụng tỷ lệ an toàn vốn để phân tích các thông tin về tính đầy đủ về vốn, các khoản nợ xấu cho tổng dư nợ để phân tích các thông số về chất lượng tài sản, tỷ lệ không phải là chi phí để phân tích tham số chất lượng quản lý, lợi nhuận trên tài sản và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu tiền gửi để phân tích quản lý thanh khoản.
Các nghiên cứu về phân tích chỉ tiêu tài chính của các nước tiên tiến trên thế giới hết sức đa dạng và chủ yếu mang tính định lượng. Những nghiên cứu này mặc dù đã chỉ ra các yếu tố tác động đến năng lực tài chính và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại nhưng hầu hết chưa nghiên cứu nào chỉ ra sự phù hợp của mô hình định lượng và mức độ tác động của từng nhân tố. Mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng các nghiên cứu trên thế giới có rất nhiều bài học mà chúng ta có thể vận dụng cho các doanh nghiệp và ngân hàng thương mại Việt Nam.
1.3. Khoảng trống nghiên cứu
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về phân tích tài chính của các tác giả tiền nhiệm đã đạt được những thành công nhất định:
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu hệ thống chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 2
- Tổng Quan Các Công Trình Nghiên Cứu Về Hệ Thống Chỉ Tiêu Tài Chính Thông
- Tổng Quan Các Công Trình Nghiên Cứu Về Sử Dụng Hệ Thống Chỉ Tiêu Tài Chính Của Mô Hình Camel Trong Đánh Giá Năng Lực Tài Chính Của Các Nhtmcp
- Tổng Quan Về Hệ Thống Chỉ Tiêu Tài Chính Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
- Hệ Thống Chỉ Tiêu Phản Ánh Khả Năng Thanh Toán
- Hệ Thống Chỉ Tiêu Phân Tích Tình Hình Cổ Phiếu Của Nhtmcp
Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.
- Xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu tài chính trong các doanh nghiệp, các ngân
hàng thương mại.
- Đánh giá được thực trạng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong các doanh nghiệp.
- Trong ngành ngân hàng, các tác giả đã vận dụng mô hình Camel vào phân tích
năng lực tài chính các ngân hàng thương mại.
Những thành công kể trên của các tác giả đi trước chính là cơ sở để tác giả luận án vận dụng và kế thừa vào nghiên cứu của mình trong luận án này.
Tuy nhiên vẫn chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào hệ thống chỉ tiêu tài chính trong các ngân hàng thương mại cổ phần (ngoài các chỉ tiêu tài chính thông thường, người sử dụng thông tin tài chính còn quan tâm đến tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu)- trong đó có các NHTMCP Việt Nam. Ngoài ra, trong hầu hết các nghiên cứu trên, các tác giả không chỉ ra được chỉ tiêu nào là phù hợp và chỉ tiêu nào chưa phù hợp với các NHTMCP, mà mặc nhiên công nhận và sử dụng đương nhiên cho một số chỉ tiêu dùng chung, một số chỉ tiêu đặc thù cho ngân hàng. Thêm vào đó, mặc dù có vận dụng mô hình Camel trong việc đánh giá năng lực tài chính ngân hàng, nhưng chưa
có nghiên cứu nào chỉ ra các nhân tố tác động và mức độ tác động của từng nhân tố đến các chỉ tiêu nhằm đánh giá năng lực tài chính của các NHTMCP Việt Nam bằng phương pháp định lượng. Nghiên cứu này sẽ rất quan trọng trong việc đưa ra một hệ thống chỉ tiêu phù hợp và quan trọng nhằm hoàn thiện các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính các NHTMCP Việt Nam.
Ngoài ra, tác giả nhận thấy rằng:
- Các nghiên cứu trên thế giới về vấn đề này chưa có nghiên cứu nào chọn các mẫu NHTMCP Việt Nam, với thể chế chính trị khác và các chỉ tiêu đặc thù khác, có thể có các kết quả khác so với các quốc gia khác.
- Các nghiên cứu trong nước cũng đã có những đề tài tập trung vào việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính mà chủ yếu trong doanh nghiệp chứ rất ít nghiên cứu xây dựng các chỉ tiêu trong NHTMCP.
- Các nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu là nghiên cứu định tính nên độ tin cậy chưa cao.
- Chưa có nghiên cứu nào chỉ ra các nhân tố tác động đến các chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá năng lực tài chính các NHTMCP bao gồm cả nhân tố nội sinh và nhân tố ngoại sinh bằng mô hình định lượng.
Đây cũng chính là “khoảng trống” mà tác giả tìm thấy trong nghiên cứu. NHTMCP nắm bắt một cách tổng quan nhất về sức mạnh tài chính của ngân hàng đồng thời đưa ra các quyết định sáng suốt nhất.
Mục đích của nghiên cứu này là hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá năng lực tài chính của các NHTMCP để giúp cho đối tượng sử dụng thông tin tài chính như nhà quản trị và nhà đầu tư đánh giá được năng lực tài chính phục vụ cho việc đưa ra các quyết định về quản trị và đầu tư thích hợp.
Ngoài ra, nghiên cứu này cũng tập trung vào việc kiểm định các nhân tố tác động đến các chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá năng lực tài chính của các NHTMCP Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Hệ thống chỉ tiêu tài chính là công cụ không thể thiếu trong việc phân tích tài chính nhằm đánh giá năng lực tài chính, từ đó phục vụ công tác quản lý và điều hành hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và các NHTMCP nói riêng. Phân tích tài chính dựa vào hệ thống chỉ tiêu tài chính sẽ giúp các nhà quản lý thấy được những tồn tại trong cơ cấu tài chính, trong việc quản lý tài sản, quản lý chi phí để từ đó đưa ra những giải pháp quản lý tài chính hiệu quả. Trong môi trường tài chính hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như qui mô của các công ty, doanh nghiệp đòi hỏi các nhà đầu tư phải phân tích tài chính của các doanh nghiệp để ra các quyết định đầu tư. Đặc biệt, NHTMCP là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, một lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro thì phân tích tài chính ngày càng có vai trò quan trọng trong việc đánh giá năng lực tài chính các ngân hàng.
Qua nghiên cứu tổng quan các công trình nghiên cứu của các tác giả tiền nhiệm cho thấy ngoài những nghiên cứu về hệ thống chỉ tiêu tài chính truyền thống của các doanh nghiệp nói chung và NHTMCP nói riêng, đã có rất nhiều nghiên cứu sử dụng hệ thống các chỉ tiêu tài chính của mô hình Camel nhằm đánh giá năng lực tài chính các NHTMCP.
Nghiên cứu cũng cho thấy hầu hết các nghiên cứu mang tính định lượng đều ở các nước phát triển, còn các nghiên cứu trong nước chủ yếu mang tính định tính. Hơn nữa, qua thực tiễn tổng kết các nghiên cứu về năng lực tài chính và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của các NHTMCP có thể rút cho luận án một số gợi ý trong việc lựa các biến liên quan đến các chỉ tiêu nhằm đánh giá năng lực tài chính.
CHƯƠNG 2.
LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH VÀ NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
2.1. Tổng quan về tài chính các Ngân hàng thương mại cổ phần
2.1.1. Khái niệm và hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần
2.1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại:
Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. (Peter S.Rose 2004)
Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp và cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. (Peter S.Rose 2004)
Theo luật tổ chức tín dụng 1997:
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
Theo Nghị định của Chính phủ số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 định nghĩa:
Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước.
Theo Khoản 3 Điều 5 Nghị định 59/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của
Ngân hàng Thương mại qui định:
Ngân hàng thương mại cổ phần là ngân hàng thương mại được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần.
Tổng hợp những định nghĩa và khái niệm theo qui định của pháp luật trong nước và quốc tế, tác giả luận án cho rằng: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ mà nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngân hàng thương mại cổ phần là loại hình ngân hàng thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Tóm lại, có thể thấy rằng, Ngân hàng thương mại cổ phần vừa thực hiện các chức năng như một ngân hàng thương mại và vừa mang những đặc trưng của công ty cổ phần.
2.1.1.2. Hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần
Theo điều IV của Luật tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 quy định:
Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một các nghiệp vụ sau đây:
Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
Mặc dù hoạt động ngân hàng rất đa dạng và phong phú nhưng các ngân hàng chỉ được thực hiện các hoạt động được nêu trong giấy phép của họ. Những chức năng này sẽ do NHTW quyết định theo từng trường hợp cụ thể.
2.1.2. Tài chính của Ngân hàng thương mại cổ phần
2.1.2.1. Quan niệm về tài chính
Đối với quan niệm về tài chính, đã có rất nhiều tác giả định nghĩa với nhiều ý kiến khác nhau. Nghiên cứu sinh đã tổng hợp được quan điểm về tài chính của một số tác giả điển hình sau:
Ngô Kim Phượng (2010) nhận định rằng tài chính là phạm trù kinh tế có tác
động đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế.
Ở một nhận định khác, tài chính còn biểu thị vốn dưới các dạng tiền tệ, nghĩa là ở dạng các khoản có thể vay mượn hay đóng góp vốn thông qua thị trường tài chính hay các định chế tài chính. Nói cách khác tài chính phản ánh hoạt động mà các cá nhân, công ty và tổ chức tạo lập tiền tệ và sử dụng nguồn tiền tệ để đáp ứng những nhu cầu phát triển khác nhau (David W.Pearce, 1999).
Còn theo Nguyễn Năng Phúc (2011b) thì tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thế của xã hội. Quan điểm này cũng có điểm tương đồng với tác giả David W.Pearce (1999).
Theo nhận định của nghiên cứu sinh, khái niệm tài chính có thể hiểu một cách tổng quát: “Tài chính là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội, nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội”.
Tài chính NHTMCP
NHTMCP là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Như vậy, NHTMCP là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh quyền sử dụng hàng hoá tiền tệ, thực hiện các chức năng: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và cung ứng dịch vụ cho khách hàng.
Hoạt động kinh doanh: đi vay (mua vốn) và cho vay (bán vốn) của NHTMCP để tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất đã làm xuất hiện các luồng tiền tệ đi vào và đi ra khỏi NH, tạo thành sự vận động của các luồng tài chính trong NHTM.
Chính sự vận động của các luồng tiền tệ trong ngân hàng đã làm nảy sinh các mối quan hệ kinh tế trong kinh doanh gắn liền với việc tạo lập, phân phối và sử dụng các qũy tiền tệ của ngân hàng
Từ đó, tác giả luận án cho rằng, tài chính NHTMCP là sự vận động của các nguồn tài chính. Các nguồn tài chính này gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
2.1.2.2. Đặc điểm tài chính của Ngân hàng thương mại cổ phần
Peter S.Rose (2004) cho rằng đặc điểm kinh doanh của NHTMCP đã quyết định đến đặc điểm tài chính của NHTMCP như sau:
Một là: Tài chính NHTMCP có tính nhạy cảm cao phụ thuộc môi trường kinh
doanh
Yếu tố đầu vào và đầu ra của hoạt động kinh doanh ngân hàng đều là tiền.
Đó là dòng tiền phát sinh từ các nghiệp vụ tài chính thuần tuý: vay hoặc cho vay trong NHTMCP. Đây là dòng tiền vận động độc lập, không có đối trọng với dòng hàng hoá dịch vụ. Sự vận động này rất nhạy cảm, phụ thuộc vào khách hàng của quá trình kinh doanh. Khách hàng có gửi tiền vào ngân hàng thì ngân hàng mới huy động được vốn (đầu vào tài chính) và mới có nguồn vốn để cho vay. Khách hàng muốn vay vốn của ngân hàng thì ngân hàng mới có thể cho vay (đầu ra tài chính). Khi luồng tiền vận động liên tục thì NHTMCP mới có thể tồn tại và thực hiện chức năng trung gian của mình.
Hai là: Tài chính NHTMCP phụ thuộc vào khả năng tạo tiền
Xuất phát từ chức năng tạo tiền là chức năng riêng có của NHTMCP mà tài chính NHTMCP có khả năng làm tăng lượng tiền (cho vay không bằng tiền mặt) hoặc có thể làm giảm lượng tiền (thu nợ không bằng tiền mặt) nhằm cung cấp phương tiện thanh toán cho nền kinh tế đồng thời tạo ra nguồn vốn quan trọng nhất phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. NHTMCP tạo tiền bằng cách tạo ra bút tệ (tiền ghi sổ), khả năng tạo tiền này chỉ có thể thực hiện được nếu vốn mà NHTMCP huy động được dưới hình thức tiền gửi đã cho vay được và số tiền cho vay đó phải luân chuyển trong hệ thống ngân hàng. Việc tạo tiền được phát sinh sau khi NHTMCP cho vay bằng chuyển khoản trong cùng một hệ thống NHTMCP. Đơn vị vay vốn được ghi nợ tài khoản cho vay, đơn vị cung ứng hàng hoá hoặc dịch vụ cho đơn vị cho vay được ghi có vào tài khoản tiền gửi tại một ngân hàng. Như vậy trong trường hợp cho vay như trên, không có nguồn vốn nhưng NHTMCP vẫn có thể cho vay được. Đó là bản chất việc tạo tiền ghi sổ của NHTMCP. Các bút tệ thực sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên cơ sở nguồn tiền gửi mới do hệ thống ngân hàng tạo ra.
Ba là: Tài chính NHTMCP có kết cấu vốn đặc thù
Để có vốn hoạt động, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sử dụng nguồn vốn tự có là chính, vì vậy tỷ trọng vốn tự có tối thiểu phải đạt được 30% trong tổng nguồn