Hệ Thống Chỉ Tiêu Phân Tích Tình Hình Cổ Phiếu Của Nhtmcp


Chính vì lý do trên, các nhà quản lý ngành ngân hàng các nước luôn xác định rõ và giám sát các ngân hàng phải duy trì một tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu, ở Việt Nam tỉ lệ này hiện đang là 8%, giống như chuẩn mực Basel mà các hệ thống ngân hàng trên thế giới áp dụng phổ biến.

Khi tính toán tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu, người ta xét đến hai loại vốn: vốn cấp I(vốn nòng cốt) và vốn cấp II (vốn bổ sung), trong đó vốn cấp I được coi là có độ tin cậy và an toàn cao hơn. Ngoài yêu cầu đảm bảo cho CAR từ 8% trở nên, các ngân hàng còn phải đảm bảo tổng vốn cấp II không được vượt quá 100% vốn cấp I.

2.2.2.6. Hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình cổ phiếu của NHTMCP

Cổ phiếu của NHTMCP cũng như của các công ty khác được giao dịch trên thị trường, phản ánh giá trị của công ty, phản chiếu tình hình tài chính của công ty. Do đó, phân tích tình hình cổ phiếu là một nội dung quan trọng khi phân tích tài chính của NHTMCP nhằm cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng thông tin bao gồm nhà quản trị ngân hàng và nhà đầu tư (Hoàng Thị Thu Hường, 2019).

Hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình cổ phiếu bao gồm:


- Số lượng cổ phiếu: là tổng số lượng cổ phiếu thường đang lưu hành, cổ phiếu

ưu đãi và cổ phiếu quĩ.

- Giá trị ghi sổ của cổ phiếu thường: Là giá trị cổ phiếu được xác định trên cơ

sở số liệu kế toán.



Giá trị sổ sách 1 cổ phiếu thường

= Vốn chủ sở hữu – Giá trị cổ phiếu ưu đãi

Số lượng cổ phiếu thường đang lưu hành


(2.33)


Phân tích chỉ tiêu này cho cổ đông thấy được sự thay đổi giá trị của cố phiếu

thường sau 1 thời gian hoạt động của NHTMCP.


- Giá trị thị trường của cổ phiếu (P): là giá giao dịch của cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Giá trị thị trường thể hiện quan hệ cung - cẩu về cổ phiếu trên thị trường, sự đánh giá của nhà đầu tư đối với NHTMCP.

- Lãi cơ bản trên cổ phiếu: EPS (công thức 2.22)

- Cổ tức chi trả cho mỗi cổ phiếu (D): phản ánh lợi nhuận thực tế mà NHTMCP trả cho nhà đầu tư. Cổ tức phụ thuộc vào lãi cơ bản trên cổ phiếu và tỉ lệ chi trả cố tức.


- Chỉ số P/E được tính bằng P/EPS: dùng để đo lường mối quan hệ giữa thu nhập hiện tại với giá cổ phiếu, cho biết nhà đầu tư sẵn sàng trả giá mỗi cồ phiếu cao hơn mức thu nhập hiện tại bao nhiêu lần.

- Chỉ số P/B được sử dụng để so sánh giá của cổ phiếu với giá trị ghi sổ của cổ phiếu đó. Công thức tính: P/B = Giá thị trường của cổ phiếu (Price) / Giá trị ghi sổ của cổ phiếu (Book value per Share)

Chỉ số này cho biết nhà đầu tư sẵn sàng trả giá cho 1 cổ phiếu cao hơn gấp bao nhiêu lần giá trị sổ sách, liên quan đến độ an toàn của nhà đầu tư dài hạn.

- Chỉ số D/P: cho biết cổ tức mà nhà đầu tư nhận được cho 1 đồng bỏ ra mua cố phiếu.

2.2.2.7. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh tình hình chấp hành, thực hiện chính sách, chế độ

Để xác định chỉ tiêu này cần căn cứ vào việc chấp hành và thực hiện các chế độ chính sách mà Nhà nước đã ban hành trong lĩnh vực tài chính của các ngân hàng thương mại. Có một số chỉ tiêu đánh giá việc chấp hành quy định an toàn trong cho vay, bảo lãnh và đầu tư như:

Tỷ lệ cho vay (bảo lãnh) đối

=

với khách hàng lớn nhất

Mức dư nợ khách hàng lớn nhất Vốn chủ sở hữu


x 100 (2.34)

Tỷ lệ góp vốn liên doanh

mua cổ phần của NH so

=

với vốn điều lệ của

doanh nghiệp

Tổng mức góp vốn liên doanh, mua cổ phần so với

Mức góp vốn kinh doanh mua cổ phần của NH vào 1 doanh nghiệp

Vốn điều lệ của doanh nghiệp


Tổng mức góp vốn liên doanh mua cổ phần của NH


x 100 (2.35)

vốn điều lệ và quỹ dự trữ của ngân hàng

= Vốn điều lệ và quỹ dự trữ

của NH

x 100 (2.36)

Từ đó có thể có các tiêu thức để đánh giá các tổ chức tín dụng sau:

- Các tổ chức tín dụng sẽ được xếp loại A nếu không có vi phạm các quy định của pháp luật hiện hành.

- Các tổ chức tín dụng xếp loại B nếu có kết luận của cơ quan có thẩm quyên về vi phạm các quy định chế độ chính sách Nhà nước hiện hành nhưng chưa đến mức bị xử phạt hành chính.


- Đối với các tổ chức tín dụng bị xử phạt hành chính trong việc chấp hành các quy định của pháp luật hoặc người quản lý điều hành tổ chức tín dụng có hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ của tổ chức tín dụng đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị xếp loại C.

2.3. Tổng quan về năng lực tài chính của Ngân hàng thương mại cổ phần

2.3.1. Quan niệm về năng lực tài chính các Ngân hàng thương mại cổ phần

Trên thực tế, thuật ngữ “năng lực tài chính” được sử dụng khá phổ biến khi đánh giá kết quả hoạt động của các tổ chức hay doanh nghiệp, tuy nhiên chưa có một khái niệm chính thống nào đề cập đến nội dung này. Vậy như thế nào là năng lực tài chính của NHTMCP? Dưới đây là những nội dung mà tác giả luận án muốn phân tích dưới góc độ nhìn nhận của cá nhân.

Phan Thị Hằng Nga & Hoàng Thái Hưng (2013) cho rằng “năng lực” là một phạm trù chung thể hiện khả năng của các chủ thể kinh tế xã hội trên các lĩnh vực hoạt động. Xét trên góc độ chủ thể, năng lực có thể là thước đo cho một cá nhân, một doanh nghiệp, một tổ chức kinh tế xã hội hay cho một bộ phận như năng lực của người lao động, năng lực của các nhà quản trị doanh nghiệp, năng lực của bộ máy lãnh đạo...

Với mỗi chủ thể, “năng lực” còn là khả năng thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu đặt ra. Để có được năng lực, nó có thể là kết quả của những yếu tố sẵn có, hay còn được gọi là lợi thế mà các chủ thể có được và dựa trên những yếu tố chủ quan mà mỗi chủ thể nắm bắt được bằng những biện pháp của mình (Phạm Thị Vân Anh, 2012).

Với những phân tích trên, “năng lực” theo cách hiểu của tác giả luận án là “Khả năng thực hiện mục tiêu dựa trên điều kiện sẵn có hoặc chủ quan của một chủ thể đối với một hoạt động nào đó”.

“Tài chính NHTMCP” là sự vận động của các luồng tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Như vậy, “Năng lực tài chính của NHTMCP” chính là khả năng tài chính để ngân hàng thực hiện và phát triển các hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả dựa trên những điều kiện có sẵn hoặc những yếu tố chủ quan mà các Ngân hàng có thể nắm bắt được bằng các biện pháp nghiệp vụ của mình.

Năng lực tài chính của NHTMCP không chỉ là nguồn lực tài chính đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà còn là khả năng khai thác, quản lý và sử


dụng các nguồn lực đó phục vụ hiệu quả cho hoạt động kinh doanh. Năng lực tài chính không chỉ thể hiện sức mạnh hiện tại mà còn thể hiện sức mạnh tài chính tiềm năng, triển vọng và xu hướng phát triển trong tương lai của ngân hàng đó.


2.3.2. Nội dung năng lực tài chính các NHTMCP

Dựa trên cơ sở lý luận về năng lực tài chính NHTMCP của các tác giả Peter S.Rose (2004); Nguyễn Việt Hùng (2018); Phan Thị Hằng Nga (2013); Phan Thị Hằng Nga & Hoàng Thái Hưng (2013); Nguyễn Thu Hiền (2012); Phạm Thị Vân Anh (2012); Nguyễn Văn Thụy (2015), nội dung năng lực tài chính các NHTMCP bao gổm:

Thứ nhất: Năng lực tài chính thể hiện khả năng tạo lập nguồn vốn của NHTMCP.

Nguồn vốn của NHTMCP là toàn bộ nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo lập và huy động được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng. Đối với một NHTMCP, nguồn vốn là một căn cứ pháp lý khi bắt đầu hoạt động, đồng thời quy mô và cơ cấu của nguồn vốn ngân hàng có tính quyết định đến quy mô, cơ cấu cho vay, đầu tư cũng như khả năng cung cấp dịch vụ ngân hàng. Hơn nữa, khả năng tạo lập nguồn vốn còn nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản của một NHTMCP. Xét trên góc độ vĩ mô, nguồn vốn của NHTMCP có ý nghĩa quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển bền vững của nền kinh tế. Cho dù ở nhiều nền kinh tế, bên cạnh nguồn vốn huy động qua hệ thống ngân hàng còn nguồn vốn được tập trung qua kênh thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, với tính chất kinh doanh của mình, các NHTMCP dễ dàng thu nhận và “khai thác triệt để” nguồn tiền nhàn rỗi của mọi chủ thể để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế.

Bên cạnh nguồn vốn chủ sở hữu, khả năng tạo lập nguồn vốn của NHTMCP còn thể hiện ở quy mô vốn huy động mà ngân hàng thu nhận được. Bằng mạng lưới và các biện pháp thích hợp, NHTMCP huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mọi chủ thể trong nền kinh tế để hình thành lên quỹ sử dụng vốn của mình. Mục tiêu của mỗi NHTMCP là huy động vốn đáp ứng đủ nhu cầu dự trữ, cho vay và đầu tư với một chi phí hợp lý nhằm thực hiện mục tiêu an toàn và tìm kiếm lợi nhuận.

Thứ hai: Năng lực tài chính của NHTMCP còn thể hiện ở khả năng “sử dụng vốn”

Nếu nguồn vốn mà NHTMCP tạo lập được thể hiện yếu tố “tiền đề” cho hoạt động của ngân hàng thì khả năng sử dụng vốn lại được coi là yếu tố “quyết định” đến kết quả hoạt động của một NHTMCP. NHTMCP có thể sử dụng vốn tạo lập được để cho vay, đầu tư hay hiện đại hóa công nghệ ngân hàng nhằm gia tăng chất lượng của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp. Cơ cấu nắm giữ tài sản có của NHTMCP


tùy thuộc vào mục tiêu sinh lời, an toàn thanh khoản cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng. Khả năng sử dụng vốn của NHTMCP trước tiên thể hiện ở quy mô các khoản cho vay, thông thường các khoản cho vay chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng tài sản có của ngân hàng. Tuy nhiên, do đặc điểm cho vay có tính rủi ro cao, nên xu hướng chuyển dịch phổ biến hiện nay là giảm tỷ trọng khoản mục cho vay trong cơ cấu tài sản có của NHTMCP. Không chỉ thể hiện ở quy mô cho vay, khả năng sử dụng vốn của NHTMCP còn thể hiện ở chất lượng các khoản vay, đây là một trong những đòi hỏi khó nhất đối với “nghệ thuật” quản lý của NHTMCP, từ xác định thị trường khách hàng mục tiêu, đến khả năng thẩm định, giám sát sử dụng tiền vay là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của khoản vay.

Với yêu cầu phân tán rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận, NHTMCP sử dụng một phần vốn tạo lập được để thực hiện các hoạt động đầu tư. Khả năng sử dụng vốn cho mục đích này thể hiện ở hiệu quả từ các khoản đầu tư mang lại và việc chấp hành quy định pháp luật cũng như giới hạn an toàn trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng.

Thứ ba: Năng lực tài chính thể hiện khả năng thực hiện mục tiêu lợi nhuận trong kinh doanh của NHTMCP.

Cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào, lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng trong hoạt động kinh doanh của NHTMCP. Lợi nhuận vừa là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh, vừa là yếu tố tác động trực tiếp đến tình hình tài chính của NHTMCP. Lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo khả năng thanh toán cũng như khẳng định uy tín của ngân hàng trên thị trường. Chính vì vậy, năng lực tài chính thể hiện khả năng mà NHTMCP thực hiện mục tiêu lợi nhuận trong kinh doanh của mình.

Thứ tư: Năng lực tài chính của NHTMCP còn bao hàm khả năng an toàn tài chính

Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh dựa trên chữ “tín”, nên an toàn tài chính là điều kiện sống còn của một NHTMCP. Khả năng tạo lập và sử dụng vốn thể hiện mức độ an toàn hoạt động của một NHTMCP. Nếu ngân hàng thực hiện tốt khả năng tạo lập và sử dụng vốn thì độ an toàn của NHTM đó sẽ được đảm bảo và ngược lại. Mặt khác, do tính chất kinh doanh đặc biệt nên hoạt động ngân hàng có tính phản ứng “dây chuyền”, vì vậy an toàn hoạt động ngân hàng có tính hệ thống. Do đó, khi nói đến năng lực tài chính của NHTMCP, nó hàm chứa cả mức độ đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống ngân hàng. Đây cũng chính là điểm thể hiện sự khác biệt giữa nội dung năng lực tài chính của NHTMCP so với các doanh nghiệp khác.


Thứ năm: Năng lực tài chính không những thể hiện sức mạnh tài chính hiện tại mà còn thể hiện sức mạnh tài chính tiềm năng, triển vọng và xu hướng phát triển trong tương lai của NHTMCP đó.

Khi đánh giá năng lực tài chính của một NHTMCP, người ta thường xem xét trong một khoảng thời gian hay một thời điểm nhất định. Tuy nhiên, năng lực tài chính không chỉ thể hiện sức mạnh tài chính của NHTMCP hiện tại, bởi lẽ ở góc độ nguồn lực, năng lực tài chính được coi là “bàn đạp” để các NHTMCP mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của mình trong tương lai.

Kết luận: Với những nội dung hàm chứa trên, có thể hiểu một cách trọn vẹn hơn về năng lực tài chính của NHTMCP như sau: “Năng lực tài chính của NHTMCP là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn để đáp ứng tối đa nhu cầu trong quá trình hoạt động kinh doanh nhằm thưc hiện mục tiêu đặt ra của NHTMCP. Năng lực tài chính của NHTMCP được thể hiện ở quy mô vốn tự có, quy mô và chất lượng vốn huy động, chất lượng tài sản, khả năng sinh lợi và đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh”.

2.3.3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính NHTMCP theo khung an toàn Camel

Theo Muhammad (2009), chất lượng của từng yếu tố sẽ quyết định sức mạnh tổng thể của ngân hàng, nhấn mạnh đến năng lực nội tại bên trong và mức độ ngân hàng có thể tự “chăm sóc” trước những rủi ro thị trường. Barker & Holdsworth (1993) thấy rằng hệ thống Camel rất hữu ích, hoạt động như một mô hình dự đoán thất bại của ngân hàng với nguyên tắc đánh giá được chỉ định dựa trên cả thông tin định lượng và định tính của ngân hàng. Một số nghiên cứu học thuật hiện có liên quan đến đánh giá hiệu quả của các tiêu chí khi sử dụng dữ liệu quá khứ để xếp hạng trong bối cảnh tương lai khi thị trường ngân hàng thay đổi nhanh chóng. Hirtle & Lopez (1999) đã kiểm tra các tiêu chí theo Camel trước đây để đánh giá các điều kiện hiện tại của các ngân hàng và họ cho rằng thông tin giám sát có trong xếp hạng Camel trước đây cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về các điều kiện hiện tại của ngân hàng. Tóm lại sau nhiều tranh luận, thông tin giám sát bởi xếp hạng Camel vẫn được xem là một cách hiệu quả để đánh giá năng lực tài chính của ngân hàng.

Hệ thống Camel phân tích năm khía cạnh truyền thống được xem là quan trọng nhất trong hoạt động của một trung gian tài chính. Theo Nguyễn Lê Thành (2012), năm lĩnh vực phản ánh các điều kiện tài chính và khả năng hoạt động nói chung của một NHTM, được mô tả như sau:

(1) C (capital)- Khả năng tự cân đối vốn: Đây là phần vốn chủ sở hữu của NHTM và khả năng của NHTM đáp ứng các món vay ngày càng mở rộng cũng như


các định hướng phát triển tài sản tiềm năng mà NHTM cần đạt được. Hệ thống phân tích CAMEL xem xét khả năng của NHTM trong việc huy động thêm vốn chủ sở hữu trong trường hợp thua lỗ và khả năng cũng như chính sách để thiết lập dự trữ trong trường hợp có rủi ro hoạt động. Các chỉ tiêu sử dụng để phân tích vốn:

- Tốc độ tăng quy mô vốn chủ sở hữu

- Tuân thủ quy định về mức vốn tối thiểu cần thiết (CAR) – (8%)

- Hệ số đòn bẩy tài chính L = tổng nợ phải trả/Vốn chủ sở hữu (avg 12.5)

- Chỉ số vốn dự trữ = Dự trữ mất vốn thực tế/Dự phòng mất vốn điều chỉnh theo CAMEL

(2) A (assets) - Chất lượng tài sản. Chất lượng nói chung của các món vay và các tài sản khác, bao gồm các khoản cho vay cơ sở hạ tầng. Điều này đòi hỏi việc xem xét phải xem xét sự phù hợp của hệ thống phân loại các món vay, quá trình thu thập thông tin và các chính sách xoá nợ.

- Danh mục cho vay/tổng tài sản = Dư nợ tín dụng/Tổng tài sản có

- Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ (1,5% theo chuẩn quốc tế, 3,5% theo chuẩn Úc)

- Tỷ lệ nợ quá hạn/Tổng dư nợ (Việt Nam: 3%, Quốc tế: 5%)

(3) M (management) - Quản lý: Các chính sách về quản lý con người, các chính sách quản lý chung của tổ chức, các hệ thống thông tin, các chế độ kiểm soát và kiểm toán nội bộ, các kế hoạch chiến lược và ngân sách đều được xem xét một cách riêng rẽ để phản ảnh toàn bộ chất lượng của hoạt động quản lý, phân tích nhân sự và phong cách làm việc của: Hội đồng quản trị; Ban quản lý; Mối quan hệ giữa hai bên… Kết quả của chất lượng quản lý: Chi phí hoạt động/tổng tài sản.

(4) E (earnings) - Lợi nhuận: Đây là nhân tố quan trọng của việc phân tích doanh thu và chi phí, bao gồm cả mức độ hiệu quả của hoạt động và chính sách lãi suất cũng như các kết quả hoạt động tổng quát được đo lường bằng các chỉ số. Phân tích khả năng tạo đủ thu nhập để bù đắp chi phí và tăng vốn bền vững các chỉ tiêu sử dụng: ROA phải đạt lớn hơn 1%; ROE phải đạt từ 15% trở lên.

- Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) = (Thu lãi cho vay và đầu tư chứng khoán

– Chi trả lãi tiền gửi và nợ khác)/Tổng tài sản sinh lời bình quân

(5) L (liquidity) - Khả năng thanh khoản: Đây là nhân tố được sử dụng khi phân tích khả năng của tổ chức trong việc xác định nhu cầu tài trợ cho dự án nói chung cũng như nhu cầu vốn cho vay nói riêng. Cấu trúc nợ và vốn chủ sở hữu của tổ chức, khả năng thanh toán của các tài sản ngắn hạn cũng là một nhân tố rất


quan trọng trong việc đánh giá tổng quan khả năng quản lý tính lỏng của tổ chức. Khả năng thanh khoản:

- Tỷ lệ thanh khoản của tài sản = tài sản thanh khoản/tổng tài sản (20-30%)

- Hệ số đảm bảo tiền gửi = tài sản thanh khoản/tổng tiền gửi (30-45%)

- Hệ số thanh khoản ngắn hạn = tài sản thanh khoản/tổng nợ ngắn hạn (30%)

- Tỷ lệ dư nợ cho vay và tiền gửi = tổng dư nợ cho vay/tổng tiền gửi (80-100%)

Bảng 2.2. Các tiêu chí CAMEL


Tiêu chí

Ý nghĩa

Công thức

Mức độ an toàn vốn

Mức độ an toàn vốn thể hiện số vốn

- Tốc độ tăng quy mô vốn chủ sở hữu

- Tuân thủ quy định về mức vốn tối thiểu cần thiết (CAR) – (8%)

- Hệ số đòn bẩy tài chính L = tổng nợ phải trả/Vốn chủ sở hữu (avg 12.5)

- Chỉ số vốn dự trữ = Dự trữ mất vốn thực tế/Dự phòng mất vốn

điều chỉnh theo CAMEL


tự có để hỗ trợ cho hoạt động kinh

(C-CAPITAL)

doanh của ngân hàng. Ngân hàng


càng chấp nhận nhiều rủi ro thì càng


đòi hỏi phải có nhiều vốn tự có để hỗ


trợ hoạt động của ngân hàng và bù đắp


tổn thất tiềm năng liên quan đến mức


độ rủi ro cao hơn.

Chất lượng tài sản

Chất lượng tài sản là chỉ tiêu tổng

- Danh mục cho vay/tổng tài sản

(A-ASSETS)

hợp nối lên chất lượng quản ý, khả

= Dư nợ tín dụng/Tổng tài sản có


năng thanh toán, khả năng sinh lợi và

- Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ (1,5%


triển vọng bền vững của một ngân

theo chuẩn quốc tế, 3,5% theo


hàng. Phần lớn rủi ro trong hoạt

chuẩn Úc)


động ngân hàng đều tập trung về phía

- Tỷ lệ nợ quá hạn/Tổng dư nợ


tài sản của nó, nên cùng với việc đảm

(Việt Nam: 3%, Quốc tế: 5%)


bảo an toàn vốn thì vấn đề nâng cao chất



lượng tài sản Có là yếu tố quan trọng



đảm bảo cho hoạt động ngân hàng.


Chất lượng quản lý (M-MANAGEMENT)

Quản lý ngân hàng là tạo ra hệ thống các hoạt động thống nhất, phối hợp và liên kết các quá trình lao động của các cán bộ nhân viên từ các phòng ban đến hội đồng quản trị trong ngân hàng, nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh ở mỗi thời kỳ đã xác định, trên cơ sở

giảm thiểu các chi phí về nguồn lực.

Chi phí hoạt động/ Tổng tài sản

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.

Nghiên cứu hệ thống chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 8

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/03/2024