Bên cạnh đó, hầu hết các hành vi gian lận như giao dịch nội gián, thao túng giá, làm giả hồ sơ tài liệu... đều có liên quan hoặc thể hiện qua vi phạm trong công bố thông tin. Khi việc công bố thông tin được quản lý một cách chặt chẽ, sẽ đảm bảo thông tin trên thị trường được chính xác, đầy đủ, kịp thời, giúp các nhà đầu tư có thể tiếp nhận thông tin một cách công bằng để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn. Ngược lại, nếu các vi phạm công bố thông tin vẫn còn cơ hội để trở nên thường xuyên, phổ biến sẽ tạo điều kiện cho các hành vi gian lận thực hiện. Ngoài ra, các mức xử phạt về chế độ báo cáo thông tin đối với cổ động nội bộ và người có liên quan quá thấp, trong khi việc chứng minh các hành vi giao dịch nội gián là rất khó khăn, dẫn đến thực trạng không đánh giá và xác định đúng mức độ hành vi gian lận, nhiều giao dịch nội gián chỉ bị xử phạt “vi phạm trong công bố thông tin” với số tiền vài chục triệu. Thế nên, các cổ đông nội bộ thường xuyên biện minh “không kịp báo cáo thông tin giao dịch” thể hiện thái độ không tuân thủ pháp luật, không coi trọng các hình thức xử phạt, gây mất lòng tin cho các nhà đầu tư bên ngoài.
- Phương pháp và kỹ thuật giám sát lạc hậu
Một lệnh giao dịch bao gồm các yếu tố cơ bản sau: thời gian đặt lệnh, giá đặt lệnh, khối lượng đặt lệnh. Nếu tách rời các yếu tố này trong quá trình phân tích, người phân tích sẽ không thể có cái nhìn toàn vẹn đối với hiện tượng diễn ra đối với hoạt động giao dịch. Việc so sánh giá với giá, khối lượng với khối lượng như hiện tại vô hình chung làm tách rời các thành phần của lệnh đặt nói riêng và hoạt động giao dịch nói chung để phân tích rời rạc, sau đó sử dụng các kết quả rời rạc để tổng hợp dẫn đến kết quả không chính xác, khó lý giải đến cùng bản chất của hoạt động đặt lệnh cũng như bản chất của giao dịch có phải là giao dịch bất thường hay không. Nếu chỉ phân tích đơn lẻ về giá mà không có yếu tố khối lượng thì kết quả phân tích không thể hiện chính xác yếu tố thanh khoản của cổ phiếu trong thời điểm phân tích. Ngược lại, nếu chỉ phân tích về khối lượng mà không kết hợp với việc phân tích giá thì các kết quả phân tích chưa thể hiện được rõ xu hướng của cổ phiếu trong giai đoạn phân tích.
Việc phân tích chưa căn cứ trên số liệu thực tế đã diễn ra và được ghi nhận chi tiết đến từng lệnh đặt và thời gian đặt lệnh để làm rõ điều kiện thị trường lúc diễn ra giao dịch cũng như mục đích và khả năng lệnh đặt tác động đến diễn biến giao dịch cổ phiếu đó như thế nào. Do đó, chưa xác định được chính xác nguyên nhân làm cho giá cổ phiếu biến động bất thường để khoanh vùng hướng xử lý tình huống đối với các trường hợp này.
Hệ thống tiêu chí cảnh báo cũng đang bị thích nghi làm hạn chế hiệu quả xác định sớm các giao dịch bất thường. Ví dụ trước năm 2010, còn có rất nhiều cổ phiếu tăng trần liên tục nhưng sau năm 2010 không còn nhiều trường hợp diễn biến theo
hướng này và trong đó phần lớn lại là trong giai đoạn thị trường tăng nóng, thanh khoản cao, nhiều tài khoản tham gia giao dịch nên rất khó chứng minh sự tác động của các tài khoản. Phương pháp phân tích giao dịch dựa trên những tài khoản giao dịch nhiều nhất bắt đầu lạc hậu so với sự phát triển của thị trường. Thông thường các tài khoản nằm trong top giao dịch đều sẽ là những tài khoản chủ yếu thực hiện thao túng giá chứng khoán nhưng hiện nay nếu chỉ tập trung phân tích đối với nhóm tài khoản top giao dịch này khó có khả năng phát hiện được giao dịch bất thường do các đối tượng đã biết chia lệnh ở nhiều giai đoạn ở nhiều tài khoản và nhiều công ty chứng khoán khác nhau để tránh bị phát hiện. Bên cạnh đó, các vụ việc về thao túng giá chứng khoán và giao dịch nội bộ ngày càng có xu hướng thực hiện theo phương pháp hỗn hợp, dùng thao túng để thực hiện giao dịch nội bộ và ngược lại.
Có thể bạn quan tâm!
- Kiểm Định Sự Khác Biệt Nhận Thức Về Hành Vi Gian Lận Của Các Chuyên Gia Theo Giới Tính
- Các Công Cụ Quản Lý Hành Vi Gian Lận Trên Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam
- Đánh Giá Thực Trạng Quản Lý Của Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước Đối Với Các Hành Vi Gian Lận Trên Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam
- Hoàn Thiện Khung Pháp Lý Đáp Ứng Nhu Cầu Quản Lý Thị Trường
- Nâng Cao Trách Nhiệm Của Tổ Chức Kinh Doanh Chứng Khoán
- Nghiên cứu hành vi gian lận trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 24
Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.
Do năng lực giám sát trong ngày nhiều hạn chế, các sở giao dịch chủ yếu dựa vào bộ tiêu chí giám sát nhiều ngày. Nên khi các kết quả so sánh vượt quá ngưỡng cho phép tích lũy trong (n) phiên giao dịch thể hiện đầy đủ thì hệ thống mới đủ khả năng nhận định dấu hiệu bất thường đối với cố phiếu đó. Vì khoảng so sánh quá dài nên khi phát hiện ra cũng là lúc hành vi gian lận (nếu có) cũng đã hoàn thành.
- Hệ thống công nghệ thông tin chưa có khả năng cảnh báo sớm.
Vì mọi hệ thống công nghệ thông tin chỉ là quá trình mô phỏng lại toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ và tiêu chí giám sát do con người thiết lập. Chỉ khi hệ thống tiêu chí giám sát có khả năng cảnh báo sớm thì mới có thể thiết lập được hệ thống công nghệ thông tin thực hiện được chức năng này. Trong khi khả năng tích hợp giữa các hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán còn thấp, hạn chế khả năng trao đổi tức thì giữa tổ chức vận hành thị trường với cơ quan quản lý giám sát thị trường chứng khoán. Mức độ liên thông thấp cũng gây khó khăn cho các chủ thể khi phải công bố thông tin đến nhiều đầu mối khác nhau. Giữa các hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chưa có sự kết nối, trao đổi dữ liệu làm ảnh hưởng đến việc phối hợp giữa các đơn vị chức năng khác nhau của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Việc phân tích chưa căn cứ trên số liệu thực tế đã diễn ra và được ghi nhận chi tiết đến từng lệnh đặt và thời gian đặt lệnh để làm rõ điều kiện thị trường lúc diễn ra giao dịch cũng như mục đích và khả năng lệnh đặt tác động đến diễn biến giao dịch cổ phiếu đó như thế nào. Do đó, chưa xác định được chính xác nguyên nhân làm cho giá cổ phiếu biến động bất thường để khoanh vùng hướng xử lý tình huống đối với các trường hợp này. Khả năng kiểm soát dữ liệu đầu vào còn hạn chế. Thiếu các công cụ phân tích, cảnh báo, không có khả năng thu thập, phân tích, đánh giá các dữ liệu phi định lượng.
3.4.3.2 Các nguyên nhân khách quan
- Năng lực và nhận thức của các nhà đầu tư chưa cao
Nhiều nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam có hành vi đầu tư theo đám đông như giao dịch chứng khoán theo người nội bộ hoặc được cho là có thông tin nội bộ, giao dịch theo nhà đầu tư nước ngoài, giao dịch theo thông tin tư vấn trên các diễn đàn chứng khoán, giao dịch theo khuyến nghị của nhà môi giới. Hành vi này vô tình biến các nhà đầu tư trở thành các đối tượng bị lợi dụng trong các kế hoạch thao túng giá và thực hiện các hành vi gian lận khác.
Ngoài ra, nhận thức của các cá nhân tham gia đầu tư chứng khoán còn chưa cao. Phân tích định tính cũng cho thấy, một bộ phận không ít các nhà đầu tư không quan tâm tìm hiểu các quy định của pháp luật về chứng khoán đã bị lôi kéo, lợi dụng để thực hiện các hành vi thao túng thị trường. Có những nhà đầu tư thiếu ý thức chấp hành pháp luật, không hợp tác khi có liên quan trong các vụ việc đã ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả xử lý của cơ quan chức năng.
- Chất lượng quản trị của tổ chức phát hành ở mức thấp
Tổ chức phát hành là nguồn cung hàng và phát hành thông tin trên thị trường chứng khoán nhưng chất lượng quản trị của các tổ chức phát hành ở Việt Nam còn thấp so với mặt bằng chung trong khu vực. Các doanh nghiệp vẫn chưa chủ động trong việc công khai hóa các thông tin. Việc triển khai, áp dụng các chuẩn mực kế toán và kiểm toán còn nhiều bất cập. Chênh lệch số liệu báo cáo tài chính trước và sau kiểm toán diễn ra phổ biến gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các nhà đầu tư và tính minh bạch trên thị trường.
Tổ chức phát hành, kể cả những doanh nghiệp có quy mô lớn cũng mới chỉ dừng lại ở mức tuân thủ các quy định mà chưa chủ động đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông. Các doanh nghiệp thường không có chính sách quản lý thông tin nội bộ chưa công bố, dẫn đến việc lợi dụng nó cho những mục đích của cá nhân và nhóm cá nhân. Sự thông đồng của tổ chức phát hành, người nội bộ, công ty chứng khoán cũng là nguyên nhân của nhiều hành vi gian lận trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Việc tổ chức phát hành không kiểm soát tốt thông tin nội bộ khiến cho những người sở hữu thông tin nội bộ có thể thực hiện những hành vi giao dịch nội gián, thao túng giá.
- Trách nhiệm của tổ chức kinh doanh chứng khoán còn yếu kém
Các tổ chức kinh doanh chứng khoán như công ty chứng khoán, các đơn vị tư vấn đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện các hành vi gian lận. Tuy nhiên, nhiều trường hợp các tổ chức kinh doanh chứng khoán đã vi phạm đạo đức và nguyên tắc nghiệp vụ như thông đồng với người nội bộ và tổ chức phát hành để thao túng giá
chứng khoán, làm giả các hồ sơ, tài liệu... Trên thực tế, mối quan hệ giữa công ty niêm yết với các công ty chứng khoán ngày càng mật thiết thông qua hoạt động tư vấn tài chính doanh nghiệp, và cả qua hoạt động bảo vệ giá cổ phiếu doanh nghiệp vì nhiều mục đích: phát hành, sáp nhập để niêm yết cửa sau, chống thâu tóm khi giá trị sổ sách cao nhưng giá cổ phiếu thấp, đối phó với việc giá trị của tài sản thế chấp là cổ phiếu cho các khoản vay ngân hàng đang bị giảm giá trị... đặc biệt đằng sau các vụ việc thao túng giá chứng khoán đều có liên quan đến công ty niêm yết. Trong phân tích tình huống cũng cho thấy, nhiều các nhân viên môi giới đã thông đồng với các đối tượng thực hiện các hành vi gian lận trên thị trường chứng khoán. Như trường hợp một số nhân viên môi giới công ty chứng khoán thực hiện hỗ trợ bà N.V.G thao túng giá chứng khoán, hoặc thông đồng với L.V.D thao túng giá chứng khoán DVD. Trong vụ án DVD còn có trách nhiệm của công ty chứng khoán là đơn vị tư vấn phát hành cho DVD, đơn vị tư vấn thường hiểu khá rõ về công ty mình tư vấn, nếu công ty tốt, đơn vị tư vấn thường cố gắng trở thành cổ đông lớn sau khi tư vấn phát hành nhưng đơn vị này lại giảm sở hữu từ 9,11% xuống còn 2,08% sau khi DVD lên sàn. Như vậy, một số tổ chức kinh doanh chứng khoán không có ý thức tham gia phòng ngừa và hạn chế hành vi gian lận thậm chí còn phối hợp thực hiện các hành vi gian lận để tìm kiếm lợi nhuận bất hợp pháp. Một phần nguyên nhân sâu xa là do năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các công ty chứng khoán còn ở mức thấp. 87% doanh thu của các công ty chứng khoán ở Việt Nam đến từ nghiệp vụ môi giới và tự doanh; 68% doanh thu thị trường thuộc về 10 công ty chứng khoán lớn nhất và trên 85,7 % doanh thu toàn thị trường thuộc về 20 công ty chứng khoán lớn nhất. Áp lực cạnh tranh thị phần, cùng với năng lực tài chính yếu khiến nhiều công ty chứng khoán sử dụng những hành vi “thông đồng” nhằm tạo lợi ích nhóm hoặc lôi kéo khách hàng.
- Vai trò của hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán khá mờ nhạt
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Việt Nam được thành lập vào năm 2005 với mục tiêu ban hành, quản lí và thống nhất các điều lệ chung, thực hiện đúng đắn các giao dịch trên thị trường, với mục tiêu bảo vệ quyền lợi của các thành viên thị trường và sự ổn định, phát triển của thị trường chung. Tuy nhiên, vai trò của tổ chức này trong quản lý, ngăn ngừa và hạn chế các hành vi gian lận là rất mờ nhạt. Hầu như không thấy sự xuất hiện của tổ chức tự quản này trong việc phát hiện các hành vi gian lận đã xảy ra. Trong khi, ở các nước trên thế giới, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán đóng vai trò trực tiếp và rất quan trọng trong việc ngăn ngừa và hạn chế hành vi gian lận, đảm bảo các quy tắc chung được thực thi nhằm đảm bảo tính minh bạch, công bằng trên thị trường chứng khoán.
Tóm tắt chương 3
Chương 3 đã phân tích thực trạng hành vi gian lận và thực trạng quản lý nhà nước đối với các hành gian lận trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Như vậy, trong chương 4 tác giả đã trả lời các câu hỏi nghiên cứu số 5, 6, 7, 8, 9 của luận án.
Nội dung chương 3 đã sơ lược quá trình phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam từ năm 2000 đến nay; phân tích các tình huống gian lận như giao dịch nội gián; thao túng giá; công bố thông tin sai lệch; làm sai lệch hoặc làm giả hồ sơ, tài liệu chứng khoán. Chỉ ra các yếu tố cơ hội, các cách thức thực hiện hành vi gian lận, các đặc điểm của các hành vi gian lận trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu định lượng đánh giá mức độ tác động của các yếu tố cơ hội dẫn đến hành vi gian lận trên thị trường chứng khoán Việt Nam theo thứ tự gồm: yếu tố “Cơ hội từ người nội bộ và tổ chức phát hành” là yếu tố tác động lớn nhất đến hành vi gian lận, tiếp theo là yếu tố “Cơ hội từ quản lý, giám sát thị trường” và cuối cùng là yếu tố “Cơ hội từ các nhà đầu tư”. Đồng thời, kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy, không có sự khác biệt nhận thức về hành vi gian lận của các nhà đầu tư theo trình độ học vấn, đối tượng khảo sát. Tuy nhiên, nam giới có nhận thức về hành vi gian lận cao hơn nữ giới.
Trong Chương 3 tác giả cũng đã phân tích và đánh giá thực trạng quản lý của Ủy ban chứng khoán Nhà Nước đối với các hành vi gian lận trên thị trường chứng khoán. Làm rõ các hạn chế, nguyên nhân của các hạn chế. Từ đó làm căn cứ để đề xuất các giải pháp, kiến nghị ở chương 4.
CHƯƠNG 4
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI GIAN LẬN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
4.1 Quan điểm, mục tiêu tăng cường quản lý các hành vi gian lận trên thị trường chứng khoán Việt Nam
4.1.1 Quan điểm phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
- Phát triển thị trường chứng khoán trở thành một trụ cột vững chắc trong hệ thống thị trường tài chính - tiền tệ; gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững, hiện đại.
- Phát triển thị trường chứng khoán với cấu trúc tổ chức thị trường giao dịch, sản phẩm phù hợp, đa dạng hóa và nâng cao khả năng tiếp cận thị trường chứng khoán của các tổ chức, doanh nghiệp, nhà đầu tư.
- Hoàn thiện thể chế bao gồm hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán cùng hệ thống tổ chức bộ máy quản lý, giám sát thị trường chứng khoán và cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin các cấp đảm bảo tính đồng bộ, hiệu lực.
- Tiếp tục thúc đẩy tính công khai, minh bạch trong hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý, giám sát thị trường chứng khoán trên nền tảng ứng dụng công nghệ mới, tiếp cận thông lệ quốc tế.
Ngày 28/2/2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 242/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025”.
Mục tiêu chung của Đề án là tiếp tục cơ cấu lại toàn diện để thị trường chứng khoán trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, xây dựng cơ cấu hợp lý, cân bằng giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn, giữa thị trường cổ phiếu và trái phiếu, giữa trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp; hỗ trợ tích cực quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế; tăng cường mở cửa và hội nhập với thị trường khu vực và thế giới.
4.1.2 Mục tiêu tăng cường quản lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đối với các hành vi gian lận trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Tăng cường quản lý các hành vi gian lận sẽ tạo điều kiện ổn định, công bằng, minh bạch, hiệu quả cho thị trường chứng khoán có thể phát triển theo đúng mục tiêu đã đề ra ở trên. Với vai trò là cơ quan trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ, ủy quyền của Bộ Tài chính, các mục tiêu tăng cường quản lý của Ủy ban chứng khoán Nhà nước đối với thị trường chứng khoán Việt Nam bao gồm:
- Hoàn thành dự thảo, trình cấp trên ban hành các Nghị định, văn bản hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14 làm căn cứ pháp lý thực thi quản lý các hành vi gian lận trên thị trường chứng khoán;
- Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các Sở Giao dịch chứng khoán trong việc giám sát, phát hiện và xử lý các vi phạm về thao túng, nội gián, vi phạm nghĩa vụ về công bố thông tin...; phối hợp giữa ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các cơ quan tố tụng về đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán, đặc biệt là 04 tội danh về chứng khoán được quy định tại Luật Hình sự.
- Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 khiến việc cung cấp và hình thành các sản phẩm, dịch vụ chứng khoán ngày càng đa dạng, phức tạp hơn. Vì vậy cần từng bước chuyển mô hình quản lý, giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước từ quản lý, giám sát tuân thủ sang mô hình quản lý giám sát dựa trên rủi ro nhằm tối ưu hóa nguồn lực, tập trung nhận diện, theo dõi, xử lý được các rủi ro có khả năng ảnh hưởng tới thị trường. Cách tiếp cận này cũng giúp cơ quan thực hiện quản lý, giám sát hiệu quả hơn trong điều kiện nguồn lực hạn chế.
- Chuyển từ cơ chế quản lý, giám sát thị trường hậu kiểm sang cơ chế giám sát theo thời gian thực mang tính phòng ngừa, ngăn chặn với việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo;
- Hoàn thiện hệ thống giám sát thị trường chứng khoán trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm, xây dựng các tổ chức kinh doanh chứng khoán thành đơn vị giám sát cấp một trên thị trường. Rà soát, sửa đổi các quy chế về xếp loại các tổ chức kinh doanh chứng khoán, về thiết lập và vận hành hệ thống quản trị rủi ro cho các tổ chức kinh doanh chứng khoán, về quản trị công ty đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán;
- Tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với các công ty đại chúng, tổ chức phát hành chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán, người hành nghề chứng khoán, tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên hành nghề kiểm toán báo cáo tài chính của các tổ chức có lợi ích công chúng trong lĩnh vực chứng khoán. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật;
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý, giám sát thị trường chứng khoán. Đặc biệt là công tác giám sát đối với công ty đại chúng và giám sát giao dịch trên thị trường. Xây dựng và triển khai Đề án tổng thể về công nghệ thông tin cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước;
- Xây dựng và triển khai chiến lược đào tạo và bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ công chức làm công tác quản lý, giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi. Tăng cường phối hợp với các tổ chức tài chính quốc tế, các cơ quản quản lý chứng khoán nước ngoài trong công tác hỗ trợ đào tạo cho cán bộ công chức của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
- Tăng cường trao đổi, tham vấn thường kỳ với các hội nghề nghiệp, chủ trì phối hợp với các hội nghề nghiệp trong việc tuyên truyền, đào tạo, ban hành quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp, kiểm tra giám sát nhằm nâng cao chất lượng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức, cá nhân tham gia trên thị trường chứng khoán;
- Chủ động phối hợp với các cơ quan truyền thông, tăng cường cung cấp thông tin cho công chúng, tuyên truyền các chủ trương, chính sách về chứng khoán và thị trường chứng khoán;
- Thực thi các cam kết quốc tế về phối hợp trao đổi thông tin, điều tra xuyên biên giới giữa các cơ quan quản lý thị trường chứng khoán. Triển khai thực hiện tốt, có hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán, các chương trình hợp tác đang thực hiện với các tổ chức và đối tác quốc tế.
4.2 Một số giải pháp tăng cường quản lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đối với các hành vi gian lận trên thị trường chứng khoán Việt Nam
4.2.1 Hoàn thiện quy trình quản lý
Cần chuyển từ quy trình quản lý dựa trên phân tích, đánh giá đầu vào và các sự kiện sang phối hợp, hợp tác phạm vi rộng hơn dựa trên nguyên tắc chủ động và liên tục.
Để có thể thu thập được các nguồn dữ liệu, thông tin thị trường, Ủy ban chứng khoán Nhà nước cần thành lập trung tâm thu nhập báo cáo có mô hình là đơn vị Sự nghiệp có nhiệm vụ thu thập báo cáo từ các nguồn thông tin bao gồm các thông tin chính thức từ công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư... thông tin từ các diễn đàn chứng khoán, các nhà đầu tư. Có kênh hotline để tiếp nhận các phản hồi kịp thời, đơn giản, nhanh chóng của các nhà đầu tư về các biến động bất thường, yếu tố nguy cơ của hành vi gian lận, thực hiện văn hóa tố cáo, tố giác tội phạm. Bởi người tố cáo đóng một vai trò quan trọng trong việc phát hiện gian lận. Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy, đơn thư tố cáo của các nhà đầu tư đóng