Tài Nguyên Sinh Vật - Một Dạng Điển Hình Của Tndlst


4.1.1.3. Tài nguyên cảnh quan địa hình địa mạo (Karst)

a. Đặc điểm cấu trúc địa chất và đá mẹ

Theo tài liệu địa chất miền Bắc Việt Nam của Dovjiko công bố năm 1965 vùng 1

Theo tài liệu địa chất miền Bắc Việt Nam của Dovjiko công bố năm 1965, vùng nghiên cứu có cấu trúc kiến tạo Ninh Bình và vùng sông Đà thuộc hệ uốn nếp Tây Bắc (Trần Văn Trị, 1977), cũng theo Trần Văn Trị, vũng chồng sông Đà nằm trực tiếp trên phức nếp lõm sông Đà có tuổi Paleozoi trung, kéo dài từ biên giới Việt Trung (bản Nậm Cúm) tới bờ biển Ninh Bình – Thanh Hóa. Qua nhiều lần thăng trầm, lắng đọng trầm

tích, Karst khác nhau, đặc biệt là giai đoạn cách đây 220 đến 250 triệu năm đã lắng đọng trầm

Hình 4.6. Nhũ đá trong động Hương Tích

tích đá vôi còn tồn tại đến nay. Khối núi đá này là một cánh cửa của một nếp lồi sườn dốc đổ về phía Đông Bắc và đường phương cấu trúc kéo dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam.

Khối núi khu vực Hương Sơn được cấu tạo bởi đá vôi hệ tầng Đồng Giao 2

Khối núi khu vực Hương Sơn được cấu tạo bởi đá vôi hệ tầng Đồng Giao, giòn dễ vỡ, tổng chiều dày của đá vôi tới 1800-2000m (Trần Văn Trị, 1977). Trong đó, đá có chưa nhiều loại hóa thạch chất rìu (phần dưới), tay cuộn (phần giữa) và chân đầu (phần trên).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Thành phần của đá có hàm lượng CaO rất cao, trung bình từ 53,97% đến

Hình 4.7. Động Hương Tích

55,26%. Các thành phần khó hòa tan chiếm tỉ lệ nhỏ: SiO2 từ 0,1 – 0,52% ; Al2O3 từ

0,02 – 0,92% ; FE2O3 từ 0,04 – 0,83% ; MgO từ 0,1 – 0,78%..v.v..(Nguyễn Vi Dân,

1982)


Do trải qua nhiều chu kỳ kiến tạo khác nhau, nhất là sau chu kỳ tân kiến tạo đã làm xuất hiện trong khối đá vôi Hương Sơn một hệ thống khe nứt với mật độ và phương khác nhau, tạo nên các hang động cũng như sự chia cắt mạch tạo thành nhiều đỉnh và các thung lũng rải rác như ngày nay.

b. Đặc điểm hình thái trắc lượng

Khu vực Hương Sơn là phần cuối của hệ thống núi và cao nguyên đá vôi Sơn La 3

Khu vực Hương Sơn là phần cuối của hệ thống núi và cao nguyên đá vôi Sơn La – Mộc Châu (Tây Bắc) và tiếp giáp với đồng bằng Bắc Bộ, nên ở đây chỉ tồn tại kiểu núi thấp (đỉnh cao nhất là Bà Lồ - 381m). Tuy vậy, biên độ chia cắt sâu cũng khá lớn (từ 100-150m). Mật độ chia cắt ngang khá dày đặc, khác với các vùng núi đá khác, vùng núi đá vôi nói chung (trong đó có Hương Sơn) không chỉ được đặc trưng bởi hệ thống khe rãnh, dòng chảy mà

còn bằng hệ thống các hố sụt, phễu, máng, trũng Karst. Các hang động nổi tiếng với chiều dài 20-25m, chiều cao từ 10 – 15m đã được tìm ra là: Hương Tích, Hinh Bồng, Long Vân, Tuyết Sơn....

Dạng Karst bề mặt mang đặc

Hình 4.8: Địa hình núi đá vôi

trưng rõ nét của Karst nhiệt đới ẩm là các khối núi nhỏ với các bề mặt đỉnh và sườn thoải gần đỉnh, chủ yếu là địa hình Karư do quá trình rửa lũa, sập lở tạo thành. Bề mặt lởm chởm dạng đá tai mèo rất đa dạng về hình thái trong cách thung lũng tạo thành những phong cảnh rất đẹp và hùng vĩ.

c. Đặc điểm địa mạo

Do địa điểm địa chất, địa hình, khí hậu và sự khai thác lâu đời của nhân dân địa phương, đất ở Hương Sơn thuộc hai nguồn gốc chính, đó là các đất phát triển từ đá mẹ là đá vôi và đất phát triển từ phù sa sông Đáy. Các quá trình ảnh hưởng trực tiếp lên bề mặt thổ nhưỡng hiện tại là quá trình rửa lũa, xói mòn, xụt lở, tích tụ ở núi đá vôi và quá trình bồi đắp của sông.


+ Nhóm dạng và yếu tố địa hình nguồn gốc sông: thuộc nhóm này gồm các đồng bằng tích tụ sông có tuổi Holoxen muộn đến hiện tại, tích tụ Aluvi tướng bãi bồi bằng phẳng, thành phần trầm tích là sét, sét pha, chiếm phần lớn diện tích phần Đông Bắc khu vực Hương Sơn. Trên bề mặt của đồng bằng này dễ dàng nhận thấy những ô trũng, là các di tích của các lòng sông cổ, trong quá trình dịch chuyển theo chiều ngang đã để lại theo dấu vết này. Đó là những đồng bằng Aluvi tướng lòng sông cổ với các thành phần tạo trầm tích là bùn, sét lẫn mùn bã thực vật. Dọc theo sông Đáy và sông Thanh Hà là các đồng bằng tích tụ với Aluvi tướng gờ cát ven sông, chủ yếu là cát, cát pha. Sát chân núi là các đầm lấy ven núi. Tham gia vào quá trình tạo thành đầm lầy có 2 tác nhân khác nhau:

- Do sông bồi đắp không đủ ở các vùng trũng chân thềm.

- Do nước ngầm ở các khối núi đá vôi chảy ra nhiều bị ứ lại.

Đầm lầy theo chế độ ngập nước có thể chia ra: ngập nước thường xuyên và ngập nước theo mùa. Do tác động của con người, diện tích ngập nước thường xuyên bị thu hẹp. Lạch sâu nhất của đầm lầy chính là lòng suối Yến, suối Tuyết....cấu tạo trầm tích tầng mặt: bùn, sét lẫn mùn bã trầm tích thực vật.

+ Nhóm dạng và yếu tố địa hình nguồn gốc Karst, theo hình thức biểu hiện của các quá trình có thể chia ra Karst bề mặt và Karst ngầm.

Trong số các dạng Karst ngầm đáng kể nhất là các hang động hang động có thể 4

Trong số các dạng Karst ngầm đáng kể nhất là các hang động, hang động có thể coi là một hệ sinh thái đặc biệt.

Hang động ở Hương Sơn tập trung vào 2 cụm lớn: Hương Tích (Tây Bắc khối) và Long Vân ( Tây Nam khối).

Ở Hương Sơn còn có các hang ngắn, độ dài 5-20m gồm 2 loại hang dạng “mái đá” phát triển theo các bề mặt lớp hoặc khe nứt vòm


Hình 4.9: Tháp Kasrt phổ biến trong khu vực


hang là bề mặt của các cấu trúc địa chất như: Hang Luộn, hang Thánh Hóa, động Đại

Binh...

Các dạng Karst bề mặt mang đặc trưng rất rõ nét của Karst nhiệt đới ẩm. Đó là các khối nhỏ dạng tháp và tháp cụt; các phễu và máng trũng. Trong karst bề mặt có thể phân chia như sau: các bề mặt đỉnh và sườn thoải gần đỉnh. Chủ yếu là dạng vi địa hình Karư do quá trình rửa lũa tạo thành, có dạng bề mặt lởm chởm dạng đá tai mèo rất đa dạng về hình thái: dạng đẳng thước và dạng kéo dài với chiều rộng không vượt quá 20-50m và phân bố rộng rãi nhất là các sườn xâm thực – rửa lũa. Trên bề mặt sườn phát triển các Karư dạng luống kéo dài, giữa các luống là các tích tụ vụn – bở, sản phẩm phá hủy đá gốc các luống này có kích thước từ một vài cen ti mét(cm) đến một vài mét(m) làm phức tạp thêm vi địa hình của loại này.

Phễu Karst theo dấu hiệu hình thái có thể chia ra phễu Karst có bề mặt dạng đáy lòng chảo trên đó có tích tụ các sản phẩm phong hóa tại chỗ và dốc tụ là nơi có thể canh tác tốt, diện tích lớn.

Một dạng đặc trưng điển hình cần được nhắc tới ở vùng này là các cánh đồng Karst ven rìa mà có thể xem như là các Sediment đá vôi (Lê Đức An, 1985)

Trên cánh đồng Karst còn phổ biến các khối núi đá vôi sót đang mất dần dấu tích của các bề mặt khối Karst rộng lớn trong quá khứ.

Một dạng địa hình tuy hiếm, song cũng cần nhắc đến đó là các hố Karst phân bố rải rác trên rìa núi đá vôi.

d. Đặc điểm thổ nhưỡng.

Mang đặc điểm chung của đất miền Bắc Việt Nam, các sản phẩm phong hóa của đá vôi thông qua quá trình feralit đỏ trên núi đá vôi mà có tác giả gọi là Terarossa. Cộng với quá trình ngoại sinh đã tạo nên ở Hương Sơn một tập hợp các dạng thổ nhưỡng sau:

- Đất đen mùn trên đá vôi bị xói mòn trơ trọi đá gốc

- Đất feralit phát triển trên đá vôi.

- Đất feralit đỏ phát triển trên đá vôi lẫn đá dăm tàn tích.

- Đất phù sa không được bồi đắp thường xuyên


- Đất phù sa được bồi hàng năm

- Đất phù sa bị glây hóa

Các loại đất trên phân bố ở hai dạng địa hình: núi và đồng bằng. Sự canh tác đã góp phần tạo ra nhiều đặc tính riêng biệt của từng loại đất đồng nghĩa với việc tạo nên sự đa dạng của các cảnh quan địa lý ở khu vực Hương Sơn.

4.1.2. Tài nguyên sinh vật - một dạng điển hình của TNDLST

Khu DTTC Chùa Hương nằm trong xã Hương Sơn có diện tích 4283.94 ha là một quần thể núi rừng, núi đá nguyên sinh với hệ động - thực vật đa dạng phong phú. 4.1.2.1.Thực vật

Mặc dù diện tích rừng ở Hương Sơn không lớn nhưng ở đây vẫn còn tồn tại 5

Mặc dù diện tích rừng ở Hương Sơn không lớn, nhưng ở đây vẫn còn tồn tại kiểu rừng rậm nhiệt đới mưa mùa nửa thường xanh cây lá rộng, cấu trúc gồm 4 tầng, trong đó tầng cây gỗ lớn là những loài cây thường gặp trong các rừng nguyên sinh như Sâng (Pometia pinnata),

Lát Xoan (Choerospondias axillaris),

Sấu (Dracontomelum duperreanum), Dâu

Hình 4.10: Thảm thực vật trên núi đá vôi

gia xoan (Allospondias lakonensis), Bồ Hòn (Sapindus mukorossi).

Theo thống kê thì thực vật khu vực Hương Sơn có 840 loài, 540 chi thuộc 185 họ của 6 ngành thực vật bậc cao có mạch và 6 kiểu trạng thái thảm thực vật trên cạn, một kiểu trạng thái thủy sinh ngập nước (Số liệu Trung tâm Địa môi trường và tổ chức lãnh thổ 2007)

+ Rừng rậm nhiệt đới mưa mùa thường xanh cây lá rộng phát triển ở thung lũng và chân núi đá vôi.

+ Rừng nhiệt đới mưa mùa thường xanh cây lá rộng phát triển ở trên sườn núi đá

vôi.

+ Rừng thưa, trảng cây bụi và gỗ nhỏ phát triển trên các đỉnh núi đá vôi hoặc

sườn vách núi có độ dốc lớn.

+ Trảng cỏ phát triển trên sườn, vách núi đá vôi.

+ Rừng thưa, trảng cây bụi trên núi đất.


+ Rừng trồng

+ Thảm thực vật thủy sinh và ngập nước.

Cây làm được liệu khá phong phú, tới 423 loài chiếm tỉ lệ cao 48,48% so với tổng số loài trong khu vực cho thấy tiềm năng cây thuốc rất lớn ở RĐD Hương Sơn, song số loài được đưa vào sử dụng còn hạn chế.

Số lượng cá thể các loài thực vật quý hiếm ở Hương Sơn có phân bố và số lượng rất khác nhau, các loài như: Lát hoa (Chukrasia tabularis A,Juss), Cốt toái bổ (Drynaria fortunei J.Sm) , Rau Sắng (Melientha suavis Pierre), Bình vôi (Stephania cepharantha Hayata) là những loài khá phổ biến và phân bố tương đối rộng, đều trong khu vực. Chúng có mặt trong tất cả các trạng thái rừng, nhiều nhất ở trạng thái IIA, IIB trên núi đá vôi.

Nhiều loài khác có giá trị kinh tế và khoa học đang bị đe dọa nguy cấp và rất nguy cấp ở mức độ toàn cầu như Lan kim tuyến (Anoectochinus setaceus Blume), Cát sâm (Callerya speciosa Schot), Bách bộ(Stemona saroum Gagnep) tuy không nhiều nhưng còn gặp trên sườn núi đá, những nơi hiểm trở. (Phụ lục 3.11)

4.1.2.2. Động Vật

Đã thống kê được tại khu vực có 228 loài động vật thuộc 84 họ, 26 bộ thuộc các lớp động vật ở cạn: thú, chim, bò sát và ếch nhái. Trong đó:

- Thú có 18 loài: SĐVN, 2006: 17 loài:; IUCN,2009 : 7 loài; NĐ/32: 12 loài.

- Chim có 7 loài: trong đó SĐVN, 2006: 2 loài; NĐ/32: 7 loài.

- Bò sát có 14 loài: Trong đó SĐVN, 2006: 11 loài; IUCN, 2009: 1 loài ; NĐ/32 :

8 loài.

- Lưỡng cư có 1 loài trong SĐVN, 2006.

Theo báo cáo của Viện Sinh thái & Tài nguyên sinh vật phối hợp với sở KHCN & Môi trường Hà Tây, trong công trình “ Hương Sơn, cảnh quan thiên nhiên và tài nguyên sinh vật” (1991), đã ghi nhận sự tồn tại của một số loài đặc biệt quý hiếm tại khu vực: Báo hoa mai (Panthera pardus), Báo gấm (Neofelis nebulosa), Vượn má trắng (Nomascus leucogenlys), Rái cá lớn (Lutra lutra), Lửng chó (Nyctereutes procyonoides) nhưng đến nay không còn nữa.

*Thú

So với tài nguyên thú của cả nước có 322 loài, 43 bọ, 15 bộ thì tài nguyên thú


của khu vực có 55 loài chiếm 17,1%, có 20 họ chiếm 46,5%, có 7 bộ chiếm 46,7% tài nguyên thú của cả nước. Trong đó đã ghi nhận 40 loài thú quý hiếm có giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn cao.

Trong 7 bộ thú có mặt tại khu vực, bộ Gặm nhấm có số loài nhiều nhất (18 loài), tiếp theo là bộ Dơi (17 loài), bộ ăn thịt (12 loài). Các bộ khác có số loài rất ít (1- 4 loài), Điều đáng lưu ý là trong số 55 loài thú ghi nhận được ở khu vực thì chủ yếu là thú nhỏ, gồm các loài dơi, chuột, sóc....là những loài không phải mục tiêu săn bắn, ít có giá trị thực phẩm và có khả năng thích nghi tốt với môi trường bị tác động, lẩn trốn tốt. Thú lớn và trung bình có số loài và số lượng cá thể rất thấp.( Xem phụ lục 3.2;3.3; 3.10)

* Chim:

Kết quả điều tra ghi nhận tại khu vực có 156 loài chim thuộc 45 họ, 16 bộ, sộ Sẻ có số lượng họ (51,1%), loài (54,59%) là nhiều nhất; tiếp theo là Bộ Cú 2 họ , 9 loài (5,77%). Các bộ có số loài ít nhất là: Bộ Ngỗng, Bộ Chim lặn, Bộ Cú muỗi, Bộ Nuốc, mỗi bộ có 1 họ và một loài.

So với tài nguyên chim cả nước có 828 loài, 81 họ, 19 bộ, tài nguyên Chim khu vực có 56 loài chiếm 18,8%, có 45 họ chiếm 55,6%, có 16 bộ chiếm 84,2% tài nguyên chim cả nước. Như vậy khu vực có nguồn tài nguyên chim rất đa dạng cao về Bộ, Họ và đa dạng mức trung bình về thành phần loài. ( Phụ lục 3.4)

* Tài nguyên Bò Sát

Tổng hợp kết quả điều tra cho thấy, đã ghi nhận tại khu vực 52 loài bò sát thuộc 13 họ, 2 bộ. So với tài nguyên bò sát cả nước có 489 loài, 23 họ, 3 bộ khu vực có 51 loài chiếm 10,4% có 13 họ chiếm 56,5% có 2 bộ chiếm 66,7%. Đặc biệt đã phát hiện một loài bò sát mới cho khoa học tại khu vực là Thạch sùng ngón Hương Sơn (Cyrtodactylus huongsonensis)Từ số liệu cho thấy nguồn tài nguyên bò sát RĐD Hương Sơn kém đa dạng về thành phần loài nhưng đa dạng rất cao về số bộ, họ. (Phụ lục 3.7)

* Tài nguyên Lưỡng cư

Tổng hợp kết quả điều tra đã ghi nhận tại khu vực 26 loài lưỡng cư thuộc 6 họ, 1 bộ Căn cứ vào chỉ số đa dạng thì khu hệ động vật RĐD Hương Sơn có mức độ đa

dạng khá về thành phần loài và đa dạng rất cao về số lượng bộ, họ đa dạng mức trung


bình về thành phần loài. (Phụ lục 3.8)

* Tài nguyên côn trùng

Thành phần côn trùng gồm có 374 loài thuộc 65 họ của 13 bộ tại khu vực Hương Sơn trong đó có 7 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam năm 2000 và 2007 và trong phụ lục IIB của Nghị định số 32 của Chính phủ. (Phụ lục 3.12)

Côn trùng ở Hương Sơn khá phong phú và đa dạng, với nhiều dạng sống đã và đang ,mang lại những vai trò, giá trị nhất định đối với hệ sinh thái rừng và con người nơi đây. Có nhiều loài có hại cho cây trồng nhưng sự phá hại chỉ có trở thành vấn đề khi chúng có số lượng cá thể lớn và gặp điều kiện rừng trồng hoặc một phương thức độc canh, các hệ sinh thái nông nghiệp. Trong số các loài ở Hương Sơn có rất nhiều loài có ích, các loài thiên địch, loài đặc sản, loài thụ phấn.

4.1.2.3. Đánh giá chung về tài nguyên Du lịch tự nhiên

Do đặc điểm cấu tạo địa chất nên địa hình ở khu vực khá đa dạng, phong phú, sinh động hấp dẫn du khách với những phong cảnh thiên nhiên đặc sắc.

Các điều kiện khí hậu, thời tiết tại khu vực tương đối thuận lợi cho sức khoẻ của con người và các hoạt động du lịch.

Môi trường sinh thái của khu vực khá đa dạng, phong phú phù hợp cho phát triển du lịch sinh thái.

Tài nguyên đất của khu vực còn nhiều tiềm năng có thể mở rộng phát triển dịch vụ cho hoạt động du lịch và DLST

Như vậy, khu DTTC chùa Hương là khu vực có tiềm năng tài nguyên du lịch thiên nhiên phong phú nếu được quan tâm thích đáng và việc quản lý khai thác hợp lý thì chắc chắn nơi đây sẽ là điểm DLST hấp dẫn của nước ta và nổi tiếng trên thế giới. Rừng đặc dụng Hương Sơn, ngoài chức năng bảo vệ môi trường sinh thái và bảo tồn nguồn gien, còn có nhiều chức năng phục vụ di lịch, tham quan giải trí. Các loài động thực vật có hình dáng, màu sắc đẹp sẽ làm tăng tính hấp dẫn đối với du khách. Nếu được bảo vệ tốt, số lượng cá thể loài sẽ tăng cao tạo khả năng tổ chức các loại hình DLST cho khu vực: Du lịch xem chim, thú, tham quan hang động, tìm hiểu về côn trùng.....

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 29/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí