thị trường thì để tăng cường năng lực doanh nghiệp trách nguy cơ cơ vỡ nợ doanh nghiệp thì cần chú trọng vào tăng cường các chỉ số tài chính mà còn tăng cường uy tín, niền tin các cổ đông để giá trị doanh nghiệp được ổn định. Thông qua nghiên cứu, các doanh nghiệp cần chú trọng vào quản trị các điểm sau:
Quản trị đối với lợi nhuận giữ lại của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp niêm yết cần cơ cấu lại các khoản đầu tư của mình một cách khoa học, cần hạn chế những khoản đầu tư không hiệu quả vào các dự án mang tính rủi ro cao cũng như lĩnh vực không phải là thế mạnh của mình vì khi đầu tư vào những lĩnh vực này thay vì không mang lại lợi nhuận mà doanh nghiệp còn tốn kém rất nhiều chi phí.
Cần quan tâm hơn nữa đến công tác phân tích dự báo biến động của dòng tiền trong doanh nghiệp để có giải pháp phương án giữ lại lợi nhuận một cách hiệu quả nhằm đảm bảo qua trình vận hành hoạt động kinh doanh trơn tru hiệu quả cao và nâng tầm giá trị doanh nghiệp.
Cần có phương án quản trị tiền mặt hiệu quả cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần lựa chọn đối tác bền vững cho nguồn tài trợ bên ngoài, điều này sẽ giúp doanh nghiệp giảm bớt rủi ro về mức độ vỡ nợ, thiếu hụt tiền mặt trong tình huống khẩn cấp. Bên cạnh đó xây dựng và phát triển mô hình dự báo tiền mặt.
Quản trị lợi nhuận trước thuế và chi phí lãi vay
Hoàn thiện và đa dạng hóa chính sách sản phẩm của doanh nghiệp, nghiên cứu giải pháp hạ giá thành sản phẩm dịch vụ để nâng cao tính cạnh tranh và hoàn thiện chính sách phân phối, kênh phân phối.
Các doanh nghiệp cần xây dựng các chính sách tín dụng thương mại hiệu quả. Chính sách này một mặt kích thích tiêu thụ hàng hóa tăng doanh thu đồng thời vẫn đảm bảo cho doanh nghiệp thu hồi nợ đúng hạn đảm bảo mối quan hệ với khách hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Hoạt Động Các Doanh Nghiệp Niêm Yết Tại Hose Giai Đoạn 2014-2016
- Hoạt Động Của Các Doanh Nghiệp Niêm Yết Giai Đoạn 2016 - 2017
- Một Số Khuyến Nghị Nâng Cao Hiệu Quả Sử Dụng Mô Hình Dự Báo
- Đối Với Ủy Ban Chứng Khoán Quốc Gia
- Bảng Kết Quả Theo Chỉ Số Z-Score, Kmv Và Thực Tế
- Nghiên cứu cách tiếp cận kế toán và cách tiếp cận thị trường trong dự báo vỡ nợ của doanh nghiệp Việt Nam - 18
Xem toàn bộ 186 trang tài liệu này.
Doanh nghiệp cần có giải pháp hiệu quả xây dựng chính sách, mối quan hệ giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp, doanh nghiệp với nhà cung cấp, doanh nghiệp với các tổ chức ngân hàng, tài chính tín dụng để tranh thủ các nguồn vốn có hiệu quả với lãi suất thấp.
Quản trị hiệu quả dòng tiền trong doanh nghiệp
Doanh nghiệp niêm yết cần quan tâm đến chính sách quản lý nợ phải thu của khách hàng một chỉ tiêu quan trọng trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhằm lành mạnh tình hình công nợ của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần có những giải pháp quản trị hiệu quả đối với hàng tồn kho để làm tốt điều này doanh nghiệp cần hoàn thiện hệ thống sổ sách quản lý hàng tồn kho, quản lý hàng tồn kho theo mô hình chiết khấu giảm giá, cần đồng bộ quy trình quản trị hàng tồn kho và đồng bộ hóa dây chuyển sản xuất.
Cần nâng cao hiệu quả quản lý và phân tích đầu tư vào các doanh nghiệp liên doanh liên kết mang tầm chiến lược và bên vững. Bên cạnh đó cần chú trọng đến tính hiệu quả của hoạt động mua bán sát nhập các doanh nghiệp.
Thực hiện hiệu quả công tác kế toán kiểm toán doanh nghiệp hiệu quả đối với hoạt động mua sắm tài sản và hạch toán khấu hao tài sản của doanh nghiệp.
Quản trị đối quản lý tài sản của doanh nghiệp
Doanh nghiệp có thể tìm cách tăng nguồn vốn kinh doanh của mình lên bằng nhiều cách như huy động thêm vốn của công nhân viên (tiền thưởng, tiền tiết kiệm, tiền nhàn rỗi…), từ các đối tác doanh nghiệp… Doanh nghiệp cần xây dựng các phương án kinh doanh hợp lý, có hiệu quả, thông báo về việc sử dụng vốn của doanh nghiệp cho công nhân viên và các đối tác góp vốn nhằm tạo nguồn tin trong việc góp vốn để mở rộng hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp cần áp dụng mô hình quản trị vốn lưu động toàn diện (Total working capital management) vì việc quản trị vốn lưu động tốt có tác động tích cực đến cân bằng tài chính và gia tăng hiệu quả của việc mở rộng quy mô nợ vay. Cụ thể là các công ty tiếp tục gia tăng số vòng quay hàng tồn kho và nợ phải thu, áp dụng mô hình tồn kho đúng lúc (Just in time); tạo lập các chuỗi cung ứng khép kín nhằm duy trì được mức tồn kho tối thiểu qua đó giảm thiểu được khoản phải trả người bán.
Doanh nghiệp cần tận dụng hiệu quả vốn được bổ sung từ kết quả kinh doanh (lợi nhuận giữ lại, phát hành cổ phiếu). Đây là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn vì công ty giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc bên ngoài, đáp ứng nhu cầu đầu tư tăng trưởng của công ty.
Giảm thiểu tài sản dài hạn không sinh lời: Đối với tài sản cố định chưa dùng doanh nghiệp nên nhanh chóng đưa vào lắp đặt và vận hành nhằm phục vụ hoạt động kinh doanh. Tài sản cố định không cần dùng doanh nghiệp có thể cho thuê, nhượng bán nhằm nhanh chóng thu hồi vốn. Đối với những phương tiện quá cũ, không còn phù hợp, thì doanh nghiệp nên có kế hoạch thanh lý, nhượng bán, giảm bớt tài sản cố định chưa sử dụng. Có như vậy, tài sản cố định hiện có sẽ phát huy hết tác dụng của nó đồng thời giảm nhu cầu tài trợ tài sản cố định làm cho vốn lưu động tăng lên. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến công tác quản lý tài sản cố định, thường xuyên bảo dưỡng
định kỳ, sửa chữa kịp thời những hư hỏng để không làm giảm công suất hoạt động mang lại hiệu quả kinh doanh cao.
Đối với thông tin bên ngoài doanh nghiệp, cần thu thập thông tin về tình hình kinh tế - xã hội như: pháp luật, chính sách của nhà nước, tình hình phát triển kinh tế xã hội và các quy định trên thị trường chứng khoán, lãi suất, lạm phát, tỷ giá hối đoái… và các thông tin về ngành như: thông tin quy hoạch phát triển kinh tế ngành, các chỉ tiêu trung bình ngành… để phân tích nhận diện được các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp.
Cần thu thập thông tin nội bộ doanh nghiệp như các thông tin chung về tình hình của doanh nghiệp như: chiến lược, mục tiêu phát triển, tình hình đầu tư, tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình biến động chứng khoán trên thị trường…và các thông tin về tài chính kế toán như: các báo cáo tài chính, các sổ sách kế toán tổng hợp, chi tiết, cũng như các báo cáo kế toán quản trị để phục vụ cho việc tìm ra cấu trúc nguồn vốn tối ưu cũng như cấu trúc nguồn vốn hiện tại tác động như thế nào đến hiệu quả tài chính.
Quản trị đối với doanh nghiệp có nguy cơ vỡ nợ
Đối với các doanh nghiệp có nguy cơ vỡ nợ thì tái cấu trúc tài chính đối với các doanh nghiệp có nguy cơ vỡ nợ là một giải pháp mang tính đồng bộ từ việc rà soát tăng cường các chỉ số tài chính đến các giải pháp tăng cường niềm tin cho các cổ đông để tăng cường vốn chủ sở hữu. Việc gia tăng vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp niêm yết sẽ giảm thiểu khả năng vỡ nợ. Do đó, các nhà quản lý doanh nghiệp cần chú ý đến lợi ích của cổ đông và nhà đầu tư, nhấn mạnh tầm quan trọng về chính sách cổ tức hằng năm của doanh nghiệp. Nếu làm được điều này tốt, doanh nghiệp sẽ gia tăng thêm niềm tin của cổ đông và nhà đầu tư, qua đó tiết kiệm chi phí huy động vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Cần xác định cổ tức tối ưu mặc dù khi giảm cổ tức lợi nhuận sẽ tăng và vốn chủ sở hữu cũng tăng, nếu cổ tức quá thấp sẽ gây ra phản ứng tiêu cực của cổ đông với doanh nghiệp dẫn đến việc tháo vốn của cổ đông gây nên trạng thái mất cân bằng thanh khoản, nguy cơ vỡ nợ doanh nghiệp.
5.1.6.2. Đối với các NHTM
Việc phân tích rủi ro trong hoạt động ngân hàng thông qua mô hình lượng hóa là hết sức cần thiết để bảo vệ ngân hàng trước rủi ro phá sản và có ý nghĩa trong việc cải về chính sách và nâng cao trình độ QLRR hệ thống ngân hàng. Trên thực tế rất nhiều tổ chức tín dụng trong nước khi ra quyết định đầu tư vẫn dựa trên các đánh giá dự trên các kinh nghiệm và cảm tính, trong khi các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng trong nước ngoài luôn sử dụng các mô hình dự báo vỡ nợ để hỗ trợ việc ra các quyết định. Ví dụ
như trường hợp Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu An Giang (AGF), ngay từ những năm 2015 các tổ chức nước ngoài cho vay đối với AGF như HSBC, ANZ… đều đồng hoạt rút hết hạn mức cho vay trong khi các TCTD trong nước vẫn tiếp tục cho vay, thậm chí còn nâng hạn mức cho vay trong khi các chỉ số tài chính đều giải sút rất mạnh, giá thị trường giảm mạnh do có nhiều thông tin liên quan không tích cực. Đầu năm 2019, AGF bị HOSE đưa vào diện cảnh bảo đặc biệt, cổ phiếu xuống rất thấp và theo số liệu dự báo vỡ nợ được tính toán được công khai thì từ năm 2015 doanh nghiệp này đã có dấu hiệu của sự vỡ nợ trong khi một số tổ chức tín dụng trong nước vẫn tiếp tục cho vay các khoản vay mới hoặc nâng hạn mức cho vay. Hay các trường hợp các doanh nghiệp thuộc nhà nước như Công ty vật tư nông nghiệp Hà Bắc, Công ty Gang thép Thái Nguyên… có lịch sử truyền thống lâu đời do sụt giảm về tài chính dẫn đến các chỉ số khi đưa vào mô hình có kết quả rất thấp trong khi việc quyết định khi xem xét cho vay các NHTM chú trọng vào quan hệ truyền thống, chủ quan dẫn đến rủi ro sau khi giải ngân.
Các NHTM cần xây dựng được các qui chế quản lý rủi ro phù hợp với chuẩn mực quốc tế như xây dựng quy trình tín dụng hiện đại và sổ tay tín dụng, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp dự theo phương pháp lượng hóa bằng các mô hình dự báo.
5.1.6.3. Đối với nhà đầu tư
Các nhà đầu tư trên sàn chứng khoán khi quyết định đầu tư vào doanh nghiệp nào nên kiểm tra về khả năng vỡ nợ doanh nghiệp thông qua mô hình KMV để dự báo. Việc lấy các dữ liệu để sử dụng mô hình KMV là tương đối đơn giản và có thể ra ngay kết quả tức thì nếu được hỗ trợ công cụ phần mềm chạy mô hình tại các công ty thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Trong trường hợp mô hình KMV cho kết quả gần với điểm vỡ nợ hoặc có nhiều thông tin bất thường thì nên tiếp tục kiểm tra bằng phương pháp kế toán với mô hình Z- Score (1993) để đưa ra quyết định phù hợp. Nếu không có công cụ hỗ trợ chạy mô hình KMV thì các nhà đầu tư có thể sử dụng mô hình Z-Score để tính toán dự báo vỡ nợ doanh nghiệp trước khi ra quyết định đầu tư.
Khi quyết định mức giá cổ phiếu mua, nhà đầu tư xem xét các thông tin trên BCTC như thông tin về tài sản, nguồn vốn, vay nợ, kết quả kinh doanh…và các thông tin khác như chất lượng sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp, hay vị thế năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường để có quyết định đầu tư hiệu quả nhất.
5.2. Kiến nghị
5.2.1. Đối với Chính Phủ
Các văn bản pháp lý về dự báo vỡ nợ doanh nghiệp tại Việt nam còn rất thiếu, nếu có thì rất khó tham chiếu như ngưỡng vỡ nợ doanh nghiệp, các tiêu chí xác định ngưỡng vỡ nợ doanh nghiệp để cho các đối tượng liên quan sử dụng. Cần có các quy định về minh bạch thông tin không những cho đối tượng là các doanh nghiệp trên sàn chứng khoán mà còn đối với tất cả các doanh nghiệp.
Tổ chức xây dựng hệ thống định mức tín nhiệm doanh nghiệp: Hiện Việt Nam chưa cho có một tổ chức định mức tín nhiệm doanh nghiệp, bản thân cũng chưa có văn bản quy phạm pháp quy nào quy định một cách chi tiết về tổ chức và hoạt động của tổ chức này. Hiện mới có Trung tâm CIC – thuộc Ngân hàng nhà nước hiện mới đang thử nghiệm việc xếp hạng tín dụng để đánh giá các doanh nghiệp đang có quan hệ tín dụng tại các ngân hàng thương mại.
Chính phủ tiếp tục hoàn thiện và hướng dẫn chi tiết thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán. Cần có hướng dẫn chi tiết về những quy định trong chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, đồng thời phải đảm bảo tính thống nhất giữa Nghị Định của Chính Phủ và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Ngoài ra, hệ thống chuẩn mực kế toán và chuẩn đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán phải tiếp tục hoàn thiện để phù hợp với thông lệ quốc tế.
Chú trọng xây dựng, củng cố và hoàn thiện theo nguyên tắc “coi trong nội dung bản chất hơn hình thức” trong việc hướng dẫn ghi nhận và trình bày thông tin kế toán. Hiện nay, Luật Kế toán 2015 cũng quy định rõ, việc lập và trình bày BCTC phải bảo đảm phản ánh đúng bản chất của giao dịch hơn là hình thức, tên gọi của giao dịch.
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động kế toán để đáp ứng được các quy định của pháp luật nói chung và gắn liền với việc nâng cao chất lượng thông tin kế toán nói riêng.
Cần hoàn thiện hệ thống BCTC trên các phương diện: Trình bày thông tin tổng quát và chi tiết đảm bảo tính so sánh và phân tích được, vì hiện nay các BCTC có báo cáo thông tin tổng quát, có báo cáo thông tin chi tiết nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu so sánh, phân tích như thuyết minh BCTC, báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh, nên bổ sung báo cáo vốn chủ sở hữu vì đây là thông tin cần thiết để đánh giá nguồn lực tự có của các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp, thông tin mà các nhà đầu tư luôn quan tâm.
Ngoài việc tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan đến tài chính, kế toán, kiểm toán, cần làm rõ và có hình thức, chế tài kỷ luật, xử phạt thích đáng đối những vi phạm đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên và công ty kiểm toán.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kế toán - kiểm toán trong tình hình mới. Trong đó, chương trình đào tạo kế toán - kiểm toán tại các trường đại học, cao đẳng cần chủ động cập nhật theo những thay đổi của chuẩn mực kế toán quốc tế đã được thừa nhận. Bên cạnh đó, các trường đại học cũng cần có cách thức để rèn luyện cho sinh viên kỹ năng phân tích, phán đoán giao dịch, vận dụng nguyên tắc kế toán, ứng dụng CNTT để xử lý và trình bày thông tin một cách linh hoạt, đảm bảo tính thích hợp, tin cậy và tính có thể so sánh được.
5.2.2. Đối với Ngân hàng nhà nước
NHNN cần tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo hướng chặt chẽ hơn cả về tính pháp lý, giải pháp kỹ thuật và chế tài để buộc các TCTD đầu tư hơn nữa vào việc xây dựng mô hình quản lý, giám sát chất lượng tín dụng, đặc biệt là xây dựng hệ thống thông tin XHTD theo Sổ tay tín dụng đã được ban hành.
Việc ban hành Thông tư 02/2013/TT/NHNN trở thành một bước tiến để đưa hệ thống ngân hàng Việt Nam đạt đến tiêu chuẩn của quốc tế. Tuy nhiên, do có nhiều thông tin, yêu cầu mới được đề cập trong thông tư, đòi hỏi NHNN Việt Nam cần chủ động mở các hội thảo, ban hành các hướng dẫn bổ sung để các TCTD có thể hiểu và thực hiện đúng theo yêu cầu. Do các TCTD tự xây dựng theo một phương pháp riêng đã tạo nên sự không thống nhất giữa các hệ thống XHTD trong việc quản lý chất lượng tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro; đồng thời việc quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước đối với việc các TCTD phân loại gặp nhiều khó khăn, không thống nhất. NHNN cần sớm đưa ra văn bản quy định cụ thể và chi tiết về phương pháp, nội dung quản lý chất lượng tín dụng, phân loại nợ, trích lập, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong toàn hệ thống tổ chức tín dụng trên cơ sở đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Hiện nay có sự khác biệt lớn giữa con số về quy mô nợ xấu của Việt Nam do NHNN hoặc các NHTM công bố so với các con số do tổ chức nước ngoài công bố.
Sự khác biệt chủ yếu do việc phân loại nợ xấu ở Việt Nam dựa vào tiêu chuẩn Kế toán Việt Nam (VAS) trong khi các tổ chức nước ngoài sử dụng Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế (IAS) để phân loại nợ xấu. Điểm khác biệt giữa VAS và IAS là VAS chỉ xem phần vốn đến hạn thanh toán nhưng không có khả năng thu hồi là nợ xấu, chứ không
phải toàn bộ dư nợ của khách hàng, nếu sử dụng IAS thì toàn bộ dư nợ của khách hàng sẽ được xem là nợ xấu. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến nợ xấu không phản ánh đầy đủ trên báo cáo tài chính của ngân hàng, gây khó khăn cho NHNN trong việc quản lý giám sát chất lượng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Điều này đòi hỏi, NHNN phải xây dựng các quy định rõ về cách thức phân loại nợ dựa trên toàn bộ dư nợ của khách hàng chứ không chỉ dựa trên khoản vay không thanh toán đúng hạn. Ngoài ra thì tình trạng thực hiện phân loại nợ theo 2 phương pháp khác biệt như hiện nay cũng sẽ gây ra nhiều bất cập về tính toán tỷ lệ nợ xấu và trích dự phòng giữa các TCTD. Nên việc đưa ra quy trình cụ thể về thời điểm áp dụng thống nhất một cách thức phân loại nợ là cần thiết để các TCTD ráo riết hoàn thành hệ thống XHTD nội bộ của mình, tránh tình trạng nơi thực hiện nơi chưa thực hiện như hiện nay. Đây là tiêu chuẩn cần thiết đầu tiên để các TCTD thống nhất trong việc xây dựng hệ thống XHTD nội bộ và dựa trên cơ sở thông tin từ hệ thống để ước lượng khả năng trả nợ của từng KHDN cụ thể. Trong quá trình đưa ra các quy định về hệ thống XHTD nội bộ cho các ngân hàng, NHNN cần tham khảo ý kiến của các tổ chứ kiểm toán trong nước cũng như các hệ thống xếp hạng tín nhiệm trên thế giới. Trên cơ sở tham khảo ý kiến của công ty sẽ giúp đưa ra được hệ thống thống nhất mà tránh được những thay đổi quá nhiều trong hệ thống hiện có, giảm thiểu thiệt hại do việc chuyển đổi hệ thống cho các ngân hàng.
* Tăng cường kiểm tra thanh tra giám sát hoạt động ngân hàng
Trong những năm vừa qua, hệ thống TCTD tăng trưởng nhanh chóng về số lượng và quy mô. Trong khi đó, hoạt động thanh tra giám sát có nhiều cải thiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, hoạt động thanh tra tại chỗ, thanh tra tuân thủ vẫn là phương pháp chủ yếu trong khi khả năng giám sát từ xa nhằm phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng còn nhiều hạn chế. Điều này đòi hỏi phải đổi mới phương pháp thanh tra giám sát, chuyển từ giám sát tuân thủ sang giám sát tuân thủ kết hợp với giám sát trên cơ sở rủi ro: tập trung xác định những hoạt động quản lý rủi ro tín dụng yếu kém tại các TCTD, đo lường đánh giá rủi ro tín dụng của các TCTD. NHNN cần tăng cường công tác thanh tra giám sát việc thực hiện hệ thống XHTD nội bộ cũng như công tác phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của các ngân hàng. Giám sát kỷ luật hạch toán và tuân thủ các quy định về công tác tín dụng đã được thể hiện đầy đủ trong Sổ tay tín dụng của các TCTD.
Công tác thanh tra giám sát ngân hàng cần đổi mới theo hướng kiện toàn mô hình tổ chức, tăng cường chất lượng và số lượng cán bộ thanh tra giám sát, hoàn thiện khung pháp lý về giám sát ngân hàng, hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu giám sát dựa trên rủi ro đồng thời thu hẹp các chuẩn mực trong nước với chuẩn mực quốc tế, đẩu mạnh phối hợp với các cơ quan giám sát tài chính trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, hệ thống hạ tầng cơ sở dữ liệu phải xây dựng với nền tảng công nghệ thông tin hiện đại, đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án “Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ hoạt động giám sát từ xa”. Đây là tiền đề cho việc chuyển từ hoạt động giám sát tuân thủ sang cơ chế giám sát kết hợp giữa rủi ro và tuân thủ, trong đó giám sát trên cơ sở rủi ro giữa vị trí qu an trọng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát ngân hàng, bảo đảm sự an toàn và lành mạnh chung của toàn hệ thống các TCTD tại Việt Nam.
* Phát huy tối đa hiệu quả cung cấp thông tin của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC)
Phát triển Trung tâm xếp hạng tín nhiệm trực thuộc NHNN có thể xem là một giải pháp tối ưu với Việt Nam nhằm có thể quản lý tập trung, tránh trường hợp thành lập các tổ chức xếp hạng tín dụng độc lập tràn lan sẽ khó quản lý và dễ xảy ra tình trạng thông đồng giữa tổ chức xếp hạng với tổ chức được xếp hạng và TCTD nhằm đem lại lợi ích cho các bên tham gia nhưng không đảm bảo theo đúng tiêu chí của Basel II. CIC là đầu mới cung cấp thông tin tín dụng rất quan trọng cho các NHTM trong việc đánh giá rủi ro khách hàng. Tuy nhiên thực tế thời gian qua cho thấy nguồn thông tin mà CIC cung cấp chỉ mang tính thống kê, hoàn toàn chưa đáp ứng được nhu cầu lớn về thông tin cập nhật và thông tin cảnh báo. Thông tin của CIC cung cấp còn nghèo nàn, chỉ dừng lại ở phân loại nhóm nợ của khách hàng, dư nợ của khách hàng tại các TCTD. Ngoài ra, điểm hạn chế là thông tin do CIC cung cấp là thông tin thiếu độ chính xác, chậm trễ so với tình trạng thực tế của khách hàng.
Nguyên nhân chủ yếu do các TCTD chưa nhận thấy tầm quan trọng của thông tin tín dụng của khách hàng hoặc do muốn che dấu thông tin chất lượng tín dụng của khách hàng, dẫn đến chậm trễ, cung cấp thông tin sai sự thật. Để khắc phục những khuyến điểm hiện tại của thông tin do CIC cung cấp và nâng cao hiệu quả cung cấp thông tin của CIC, NHNN cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Có những biện pháp tuyên truyền thích hợp để các NHTM nhận thấy quyền lợi và nghĩa vụ trong việc cung cấp và sử dụng thông tin tín dụng.