MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Một vấn đề chung của các khu công nghiệp trên cả nước hiện nay đó là công tác quản lý chất thải rắn phát sinh từ khu công nghiệp đang gặp phải rất nhiều vấn đề. Trước hết, việc lấp đầy khu công nghiệp bằng phương pháp thu hút các nhà đầu tư triển khai xây dựng, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất tại đây vô hình chung đã khiến cho lượng chất thải rắn công nghiệp từ các cơ sở sản xuất gia tăng một cách chóng mặt. Ngoài ra, sự đa dạng nguồn phát sinh, sự phức tạp về thành phần hay tính độc hại từ các loại chất thải rắn này cũng đang làm cho các nhà quản lý thực sự khó khăn.
Khu công nghiệp Phúc Khánh thuộc tỉnh Thái Bình có tới gần 50 doanh nghiệp sản xuất, nhưng chỉ có một cơ sở xử lý, đa phần là thu gom chất thải rắn. Như vậy, lượng chất thải rắn công nghiệp thải ra là rất lớn, nếu như không có những biện pháp cụ thể, chất thải rắn từ khu công nghiệp sẽ ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đối với môi trường địa phương và gây tổn hại cho sức khỏe người dân, cộng đồng.
Bên cạnh đó, công tác bảo vệ môi trường tại khu công nghiệp Phúc Khánh hiện nay vẫn chưa được các cấp chính quyền địa phương quan tâm đúng mức, việc quản lý, kiểm soát chất thải rắn từ các cơ sở sản xuất chưa được chú trọng, sự liên kết giữa ban quản lý các khu công nghiệp và công ty quản lý chất thải rắn là không nhiều, rất ít các quy định mang tính ràng buộc, chưa có cơ sở xử lý chất thải rắn riêng cho khu công nghiệp.
Do vậy, một trong những công tác thiết thực nhất hiện nay đó là tìm được các giải pháp mới có thể nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn, giảm thiểu lượng chất thải rắn phát sinh, tạo cơ sở cho các khu công nghiệp mới hiện nay ở Thái Bình nói chung và khu công nghiệp Phúc Khánh nói riêng, có thể phát triển bền vững, xanh sạch đẹp trong tương lai.
Từ những lý do thực tiễn trên, tác giả luận văn cho rằng việc tiến hành nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn tại khu công nghiệp Phúc Khánh – tỉnh Thái Bình là rất cần thiết.
Mặt khác, hiện nay vẫn chưa có cá nhân, tổ chức hay đơn vị nào có cùng nghiên cứu với những lĩnh vực mà đề tài đề cập đến, như vậy, đề tài luận văn của tác giả có tính chất mới hoàn toàn, đảm bảo được các yếu tố khách quan trong nghiên cứu này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
a, Các câu hỏi nghiên cứu của đề tài luận văn.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn tại khu công nghiệp Phúc Khánh - Thành phố Thái Bình - Tỉnh Thái Bình - 1
- Địa Điểm, Thời Gian Và Đối Tượng Nghiên Cứu:
- Nguồn Phát Sinh Chất Thải Rắn Trong Quá Trình Sản Xuất A, Sự Phát Sinh Chất Thải Rắn Nguy Hại
- Thành Phần Chất Thải Rắn Nguy Hại Tại Kcn Phúc Khánh
Xem toàn bộ 74 trang tài liệu này.
Hiện trạng và diễn biến chất thải rắn tại khu công nghiệp Phúc Khánh – thành phố Thái Bình - tỉnh Thái Bình như thế nào?
Các tác động đến môi trường do chất thải rắn gây ra tại khu công nghiệp Phúc Khánh là gì?
Hiệu quả quản lý chất thải rắn tại khu công nghiệp Phúc Khánh – thành phố Thái Bình – tỉnh Thái Bình ra sao?
Các giải pháp có thể nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn tại KCN Phúc Khánh – tỉnh Thái Bình là gì?
b, Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu chung: Tìm kiếm được các giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý chất thải rắn tại KCN Phúc Khánh– tỉnh Thái Bình.
Mục tiêu cụ thể:
+ Nghiên cứu thực trạng chất thải rắn tại khu công nghiệp Phúc Khánh – thành phố Thái Bình - tỉnh Thái Bình;
+ Xác định những vấn đề do chất thải rắn tác động tới môi trường.
+ Đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn tại khu công nghiệp Phúc Khánh – thành phố Thái Bình - tỉnh Thái Bình.
Nội dung nghiên cứu
3. Nội dung nghiên cứu của đề tài
a. Hiện trạng chất thải rắn công nghiệp tại khu công nghiệp Phúc Khánh
b. Hiện trạng quản lý chất thải rắn công nghiệp tại KCN Phúc Khánh
c. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn công nghiệp
4. Bố cục luận văn
Cấu trúc luận văn gồm có 3 phần
Chương I: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
Chương II: Địa điểm, thời gian, phạm vi, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Chương III: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình quản lý chất thải rắn công nghiệp trên thế giới
Dưới đây là những mô tả tổng quan về tình hình quản lý chất thải rắn công nghiệp tại một số nước trên thế giới:
Trung Quốc: Trung Quốc đã đề ra luật kiểm soát và phòng ngừa nhiễm bẩn do chất thải rắn (1995), “được kết cấu và điều chỉnh theo hai tiêu chí gồm mức độ nguy hại của chất thải và nguồn phát thải. Trong chất thải thông thường lại chia thành chất thải cơ bản, chất thải công nghiệp và chất thải đô thị” (nguồn: Kinh nghiệm một số nước trong xây dựng pháp luật về bảo vệ môi trường, trang 5)[1], bộ luật này quy định các ngành công nghiệp phải đăng kí việc phát sinh chất thải, nước thải…đồng thời phải đăng kí việc chứa đựng, xử lý và tiêu hủy chất thải, liệt kê các chất thải từ các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp hóa chất.
Hàn Quốc: Hàn Quốc ban hành nhiều đạo luật khác để giải quyết từng vấn đề môi trường cụ thể, có thể kể đến như: Luật Bảo tồn môi trường tự nhiên (1991); Luật Trách nhiệm chi trả cải thiện môi trường (1991); Luật Khuyến khích sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường (2004); Luật về Quan trắc và phân tích môi trường (2006); Luật khung về Phát triển bền vững (2007); Luật Sức khỏe môi trường (2008). Tại Hàn Quốc, lĩnh vực quản lý chất thải và lĩnh vực quản lý vật chất độc hại và nguy hiểm được tách riêng và không nằm trong phạm vi điều chỉnh của đạo luật khung về chính sách môi trường. Trong giai đoạn từ 1980 – 2008, số lượng các đạo luật liên quan đến môi trường của Hàn Quốc tăng lên nhanh chóng, đến năm 2008 đã có 46 luật liên quan đến bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên.
Nga: Các quy định về bảo vệ môi trường đã được đưa vào hệ thống pháp luật của Liên bang Nga từ 20 năm qua. Những quy định về quyền, nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực BVMT được ghi nhận. Điều 42 quy định “Mọi công dân có quyền sống trong môi trường trong lành, quyền được thông tin về môi trường, quyền được bồi thường cho những thiệt hại về sức khỏe và tài sản gây ra bởi vi phạm pháp luật môi trường”. Điều 58 thì đưa ra nghĩa vụ phải bảo vệ thiên nhiên và môi trường của mọi công dân. Hiện nay tại Nga có khoảng hơn 20 đạo luật liên
bang quy định về BVMT. Trong đó, có thể kể đến như: Luật Bảo vệ môi trường (2002); Luật Kiểm định sinh thái (1995); Luật Vệ sinh dịch tễ (2001); Luật về Các khu vực được bảo vệ đặc biệt (1995); Luật Bảo vệ hồ Baikal (1998); Luật Bảo vệ bầu khí quyển (1999); Luật Chất thải sản xuất và sinh hoạt (1998). Ngoài ra còn có một số đạo luật có liên quan khác như: Luật Sử dụng năng lượng nguyên tử; Luật An toàn phóng xạ; Luật Tiêu hủy vũ khí hóa học; Luật về Hoạt động biến đổi gen; Luật Tình trạng khẩn cấp; Luật An toàn công nghiệp.
Hà Lan: Việc xử lý chất thải rắn của Hà Lan được sự tham gia tổng lực của chính quyền, xã hội cũng như các cơ quan chuyên ngành. Chất thải được xử lý bằng nhiều cách khác nhau, trong đó phần lớn được thiêu hủy, một phần được tái chế. Trước đây, Hà Lan tiến hành thiêu hủy ở ngoài biển, nhưng từ năm 1990 trở lại đây, Hà Lan đã tập trung xử lý tại 5 khu vực trên phạm vi toàn quốc, thường do các xí nghiệp tư nhân với sự tham gia của nhiều công ty tiến hành dưới sự giám sát của các cơ quan chuyên môn. Ngoài ra, Hà Lan còn đạt được chuyển biến lớn trong việc mở rộng chương trình giáo dục trong trường học, trong các xí nghiệp công nghiệp về sự cần thiết của môi trường và chất thải được phân loại ngay từ nguồn phát thải. Việc tiêu hủy chất thải rắn công nghiệp được tiến hành ở những lò đốt hiện đại với kỹ thuật mới nhất, hoặc việc tổ chức sản xuất được ứng dụng những quy trình đặc biệt nhằm tạo ra nguồn nguyên liệu mới.
1.2. Thực trạng quản lý chất thải rắn tại Việt Nam
Ngày 7/8/2012, theo công bố của Bộ Tài nguyên & môi trường: “mỗi ngày các KCN ở Việt Nam hiện nay thải ra khoảng 8.000 tấn CTR, tương đương khoảng gần 3 triệu tấn CTR mỗi năm. Tuy nhiên, lượng CTR đang tăng lên cùng với việc gia tăng tỷ lệ lấp đầy các KCN. Tính trung bình cả nước, năm 2005-2006, 1 ha diện tích đất cho thuê phát sinh CTR khoảng 134 tấn/năm”. (trích: Báo cáo môi trường năm 2011 – chất thải rắn, trang 59)[2]
Đến năm 2008-2009, con số đó đã tăng lên 204 tấn/năm, mức tăng khoảng 50% tức trung bình 10% mỗi năm. Sự gia tăng phát thải trên đơn vị diện tích phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất công nghiệp, xuất hiện các ngành có mức phát
thải cao và quy mô ngày càng lớn tại các KCN. “Hiện tại, 3 vùng KTTĐ chiếm khoảng 80% tổng lượng CTR công nghiệp, trong đó lớn nhất là vùng KTTĐ phía Nam. Năm 2009, khu vực này có tổng mức phát thải là 3.435 tấn CTR/ngày đêm” (nguồn: Báo cáo môi trường 2011 – chất thải rắn, trang 60)[3]
Kết quả điều tra, nhiều KCN chưa có điểm tập trung thu gom chất thải rắn theo quy định. Đối với rác sinh hoạt, phần lớn các doanh nghiệp trong KCN ký hợp đồng thuê các công ty có năng lực thu gom. Riêng CTR công nghiệp có chứa thành phần nguy hại, đang được thuê/giao/bán cho doanh nghiệp có giấy phép hành nghề vận chuyển CTNH. Tuy nhiên, vấn đề kiểm soát chất thải sau hợp đồng chưa thực hiện tốt, nguy cơ làm phân tán CTNH ra môi trường cao. Chưa có báo cáo đánh giá về tỷ lệ thu gom các CTR từ các KCN.
“Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, luật môi trường chỉ đưa ra các quy định chung dưới dạng khung pháp lý cho các quy định dưới luật của các ngành chức năng” (trích: Lê Văn Khoa, Khoa học môi trường, trang 317) [4] . Tuy nhiên, với việc ban hành Luật bảo vệ môi trường 2014 mới, thể hiện quyết tâm bảo vệ môi trường của chính phủ Việt Nam trong tình hình hiện nay. Luật bảo vệ môi trường 2014 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 23 tháng 6 năm 2014 và đã có hiệu lực thi hành từ 1 tháng 1 năm 2015. Theo bộ luật này, Bộ Tài nguyên & Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 về quản lý chất thải và phế liệu và các Thông tư hướng dẫn đã được ban hành là những căn cứ pháp lý quan trọng để quản lý chất thải thống nhất theo định hướng mới. Bên cạnh đó, công cụ xác nhận bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt, cơ sở xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường là bước tiến quan trọng, góp phần ngăn chặn các công nghệ xử lý, lò đốt không đảm bảo yêu cầu trước khi hoạt động. Đặc biệt, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh vực quản lý chất thải. Trong đó, đẩy mạnh xây dựng và ban hành trong năm 2015 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với lò đốt
CTR. Đây là căn cứ kỹ thuật quan trọng mang tính sàng lọc cho việc sản xuất, lựa chọn và thẩm định lò đốt ngay từ giai đoạn đầu.
Hiện nay, một vấn đề dễ nhận thấy là sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền cũng như các địa phương trong công tác quản lý CTR. CTR phát sinh tập trung chủ yếu tại các Vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước. Cùng với sự phát triển mạnh việc công nghiệp hóa tại các tỉnh thành nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm thì lượng phát sinh CTR tại địa phương đó càng tăng cao và diễn biến phức tạp, đòi hỏi cơ sở vật chất để quản lý CTR cũng như cơ quan quản lý nhà nước về CTR tại địa phương phải được xây dựng và vận hành khoa học, đáp ứng với nhu cầu phát triển. Tuy nhiên, việc quản lý chất thải rắn ở các khu công nghiệp của các bộ, ngành và địa phương còn có nhiều chồng chéo, quy hoạch chưa rõ ràng. Hầu hết các địa phương chưa xây dựng quy hoạch quản lý chất thải rắn công nghiệp hiện nay chỉ có một vài địa phương lập quy hoạch như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Định, Đaklak, Quảng Ninh. Một vài địa phương khác chỉ dừng ở mức quy hoạch, thu gom, xử lý chất thải rắn công nghiệp như Thừa Thiên Huế hoặc đề xuất các biện pháp quản lý môi trường như Long An. Nội dung chủ yếu vấn chỉ xoay quanh vấn đề lựa chọn bãi chôn lấp, khu xử lý, chưa xây dựng được một quy hoạch quản lý tổng thể chất thải rắn công nghiệp. Chính việc thiếu quy hoạch tổng thể quản lý chất thải rắn công nghiệp dẫn đến địa phương thiếu căn cứ triển khai các dự án, chương trình cụ thể, và chưa đáp ứng được những đòi hỏi của tình hình thực tế. Tại Nghị định 38/2015/NĐ-CP và Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT đã có các quy định để có thể có biện pháp quản lý phù hợp với các địa phương kể từ khâu lưu giữ, thu gom, vận chuyển và xử lý. Một trong những giải pháp đưa ra là xây dựng những trung tâm xử lý CTNH theo cụm hoặc theo Vùng để giải quyết cho những địa phương phát sinh ít chất thải nguy hại, nhưng hiện nay vẫn chưa triển khai được nhiều. Vì vậy, nguy cơ ô nhiễm môi trường do chất thải rắn công nghiệp đang là một vấn đề cấp bách đối với hầu hết các khu công nghiệp trong cả nước.
1.3. Quản lý chất thải rắn tại tỉnh Thái Bình
Thái Bình là địa bàn tập trung nhiều ngành công nghiệp lớn. Thái Bình đã quy hoạch, phát triển 9 KCN tập trung và 15 cụm công nghiệp trên địa bàn huyện, thành phố với tổng diện tích khoảng 3.180,5 ha (có 6 KCN do Thủ tướng Chính phủ thành lập). Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Thái Bình có 06 KCN, 29 cụm công nghiệp (CCN), trên 240 làng nghề thu hút hàng trăm doanh nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Cùng với đó, lượng CTR phát sinh trong sản xuất công nghiệp rất lớn, thống kê thực tế cho thấy Thái Bình đang có khoảng 459 công ty, xí nghiệp, cơ sở sản xuất đang hoạt động, nhưng chỉ với gần 140 doanh nghiệp nằm trong các KCN. Hàng tháng các CSSX này thải ra khoảng 12.000 tấn CTR các loại, trong đó CTR nguy hại chiếm gần 15% (nguồn: số liệu tổng hợp Báo cáo quan trắc môi trường tỉnh Thái Bình 2015). Và số lượng này hiện vẫn không ngừng tăng lên cùng với sự phát triển của các khu, cụm công nghiệp trong toàn tỉnh.
Hiện toàn tỉnh Thái Bình chưa có khu xử lý chất thải rắn nguy hại. Các doanh nghiệp phải có hợp đồng xử lý chất thải rắn nguy hại với các công ty xử lý có năng lực. Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Thái Bình quản lý, phụ trách kiểm
tra, xét duyệt các thủ tục, hợp đồng xử lý này. Ngoài ra, việc phân loại chất thải nguy hại tại nguồn còn nhiều hạn chế, các quy định về lưu chứa, thu gom vận
chuyển vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Ví dụ: bãi chứa chất thải rắn tại khu công nghiệp Tiền Hải đã đi vào hoạt động nhưng hiệu quả không cao, mới chỉ là chỗ chứa rác của một số doanh nghiệp. Trong khi, theo quy định, rác thải rắn sau khi đưa vào bãi rác phải được phân loại, xử lý theo đúng quy trình.
Bên cạnh đó, tình trạng các doanh nghiệp giao khoán hợp đồng xử lý rác thải cho các đơn vị đảm nhiệm đang còn thiếu sự kiểm tra, giám sát từ các cơ quan chức năng. Các đơn vị thu gom chất thải từ nhà máy, xí nghiệp về phân loại, những chất có thể tái chế được thì tận dụng, còn chất thải độc hại thì thải ra môi trường hoặc bị trộn lẫn trong rác thải sinh hoạt rồi đem chôn lấp, gây tác hại nghiêm trọng về môi
trường. Mặt khác, các KCN, cụm công nghiệp vẫn chưa bố trí quỹ đất để tập kết CTR công nghiệp. Do đó, việc cần có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả