vậy, cung ứng dịch vụ thông tin di động luôn chú trọng đến yếu tố con người, đặc biệt là tâm trạng và thái độ phục vụ.
- Quá trình tiêu thụ dịch vụ gắn liền với quá trình sản xuất
Dịch vụ thông tin di động được sản xuất ngay tại điểm phân phối. Khách hàng có nhu cầu thì họ sẽ tìm đến, yêu cầu cung cấp dịch vụ, khi đó quá trình sản xuất mới diễn ra; khách hàng không được định trước, không thể nắm bắt lựa chọn hay trao đổi sản phẩm khi đã mua, chỉ khi họ đã dùng thì mới cảm nhận được chất lượng dịch vụ. Một trong những kinh nghiệm của các tập đoàn viễn thông trên thế giới về nâng cao khả năng cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ là tăng mức độ nhận biết của khách hàng về dịch vụ thông qua các yếu tố hữu hình của dịch vụ: con người, quá trình thủ tục và môi trường vật chất, đồng thời tổ chức mạng lưới phân phối rộng khắp, linh hoạt, đồng bộ và thống nhất.
- Quá trình truyền đưa tin tức là quá trình xác lập mối quan hệ đa chiều
Mỗi công ty viễn thông tham gia quá trình truyền đưa tin tức không tự mình tổ chức được toàn bộ quá trình dịch vụ mà phải có sự phối hợp của nhiều công ty. Vì thế, phát triển mạng lưới viễn thông rất quan trọng ở tính đồng bộ và trong quá trình xác lập thông tin có sự tham gia của nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ thông tin di động.
- Tính kịp thời của dịch vụ thông tin di động
Tính kịp thời trong cung ứng dịch vụ thông tin di động bắt nguồn từ chỗ thông tin chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, đây là đặc điểm quan trọng để nâng cao lợi ích của khách hàng, làm hài lòng và lôi kéo sự trung thành của khách hàng. Các đơn vị không nhất thiết phải truyền nhanh nhất tất cả các loại tin tức vì điều đó bị bó buộc bởi khả năng thực tế của từng công ty, điểm quan trọng hơn của tính kịp thời đó là tiêu chuẩn phù hợp về thời gian đối với từng loại tin tức để đảm bảo tuyệt đối giá trị sử dụng của thông tin đó. Ví dụ như tin nhắn không cần nhanh như các cuộc gọi trực tiếp. Đặc điểm này cũng đòi hỏi các công ty phải tổ chức thông tin 24/24h trong ngày.
2.2. Năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ thông tin di động của các công ty viễn thông
2.2.1. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Các Nghiên Cứu Liên Quan Đến Chủ Đề Đề Tài
- Những Điểm Thống Nhất Về Cạnh Tranh Trong Cung Ứng Dịch Vụ Thông Tin Di Động Của Các Công Ty Viễn Thông
- Cơ Sở Lý Thuyết Về Năng Lực Cạnh Tranh Trong Cung Ứng Dịch Vụ Thông Tin Di Động Của Các Công Ty Viễn Thông
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Năng Lực Cạnh Tranh Trong Cung Ứng Dịch Vụ Thông Tin Di Động Của Các Công Ty Viễn Thông
- Kinh Nghiệm Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Trong Cung Ứng Dịch Vụ Thông Tin Di Động Của Một Số Nước Trên Thế Giới
- Khái Quát Tình Hình Cạnh Tranh Trong Cung Ứng Dịch Vụ Thông Tin Di Động Của Các Công Ty Viễn Thông Việt Nam
Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.
Thuật ngữ năng lực cạnh tranh đã được sử dụng rộng rãi trong phạm vi toàn cầu. Khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh, người ta thường xem xét, phân biệt năng lực cạnh tranh theo bốn cấp độ: năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh ngành, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm/dịch vụ.
- Năng lực cạnh tranh quốc gia có thể hiểu là việc xây dựng một môi trường kinh tế chung, đảm bảo phân bổ hiệu quả các nguồn lực, đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững.
- Năng lực cạnh tranh ngành: cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích đầu tư có lợi hơn.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của chủ thể trong sản xuất/cung ứng hàng hóa dịch vụ, là trình độ sản xuất ra sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là năng lực tồn tại và phát triển mà không cần sự hỗ trợ của Nhà nước. Bên cạnh đó, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực cung cấp sản phẩm/dịch vụ của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường, thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ trong việc sản xuất và cung ứng, vừa tối đa hóa lợi ích của mình vừa thỏa mãn tốt nhu cầu của khách hàng.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm/dịch vụ thể hiện năng lực của sản phẩm/dịch vụ đó thay thế một sản phẩm/dịch vụ khác đồng nhất hoặc khác biệt, có thể do đặc tính, chất lượng hoặc giá cả sản phẩm/dịch vụ. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm/dịch vụ là một trong những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu trong cùng một thị trường, có thể nói, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm/dịch vụ là hai khái niệm gần nhau. Theo GS.TS. Bùi Xuân Phong: năng lực cạnh tranh của sản phẩm/dịch vụ là khả năng sản phẩm/dịch vụ đó được sử dụng nhiều và nhanh chóng khi trên thị trường có nhiều doanh nghiệp cùng cung cấp sản phẩm/dịch vụ đó [13].
2.2.2. Năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ thông tin di động của các công ty viễn thông
Để hiểu rõ khái niệm năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ thông tin di động của các công ty viễn thông, trước hết ta tìm hiểu khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Theo Từ điển thuật ngữ chính sách thương mại, năng lực cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp hoặc một ngành, thậm chí một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác hoặc nước khác đánh bại về năng lực kinh tế [56].
Cuốn từ điển đề cập đến năng lực cạnh tranh như là năng lực kinh tế ở cả ba cấp độ là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của ngành và năng lực cạnh tranh quốc gia.
Fafchamps cho rằng: Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng của
doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường [44].
Cách tiếp cận này có thể hiểu rằng một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh có nghĩa là sản phẩm của doanh nghiệp đó có giá bán bù đắp được chi phí biến đổi.
Theo dự án VIE 01/025, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước [6].
Dự án đã đề cập đến môi trường cạnh tranh đối với doanh nghiệp. Trong môi trường cạnh tranh đó, doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh nghĩa là phải tăng được thị phần và sản xuất kinh doanh có lợi nhuận. Cách tiếp cận này khá đầy đủ các yếu tố của năng lực cạnh tranh, tuy nhiên, vẫn thiếu yếu tố về chất lượng sản phẩm/dịch vụ.
Nguyên nhân dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau về năng lực cạnh tranh là do cách tiếp cận khác nhau. Theo M. Porter, năng lực cạnh tranh chỉ có ý nghĩa khi xem xét ở cấp độ quốc gia là năng suất [51]. Kruggman thì lại cho rằng năng lực cạnh tranh ít nhiều chỉ phù hợp ở cấp độ doanh nghiệp vì ranh giới cận dưới ở đây rất rõ ràng, nếu công ty không bù đắp nổi chi phí thì hiện tại hoặc sau này sẽ phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản [43]. Hai cách tiếp cận này cho thấy các cấp độ khác nhau của năng lực cạnh tranh.
Từ những quan niệm trên, tác giả cho rằng: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của mình một cách lâu dài và bền vững trên thị trường cạnh tranh bằng cách tạo ra các sản phẩm/dịch vụ có chất lượng phù hợp, giá thành hợp lý, cách bán/cung ứng thuận tiện và thu được mức lợi nhuận mục tiêu.
Có thể thấy rằng, để đạt được mục tiêu của mình, doanh nghiệp phải có năng lực để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Đó chính là thị trường mục tiêu của doanh nghiệp.
Áp dụng vào lĩnh vực cung ứng dịch vụ thông tin di động, có thể hiểu năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ thông tin di động của các công ty viễn thông là khả năng các công ty viễn thông có thể duy trì vị trí của mình một cách lâu dài và bền vững trên thị trường cạnh tranh bằng cách tạo ra các dịch vụ thông tin di động có chất lượng phù hợp, giá cước hợp lý, cách cung ứng thuận tiện và thu được mức lợi nhuận mục tiêu.
2.2.3. Sự cần thiết và vai trò của việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ thông tin di động của các công ty viễn thông
Đối với các công ty cung ứng dịch vụ thông tin di động, cạnh tranh luôn tạo ra những cơ hội và áp lực cho các công ty. Do đó, các công ty này phải tăng cường năng
lực cạnh tranh của mình, đồng thời thay đổi mối tương quan về thế và lực để tạo ra các ưu thế trong cạnh tranh. Do vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ thông tin di động của các công ty viễn thông trong nền kinh tế thị trường hiện nay có vai trò tích cực:
Thứ nhất, việc nâng cao năng lực cạnh tranh tạo áp lực buộc các công ty viễn thông phải thường xuyên tìm tòi sáng tạo, cải tiến phương pháp sản xuất và tổ chức quản lý cung ứng dịch vụ, đổi mới công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển dịch vụ mới, tăng năng suất lao động, hạ giá thành dịch vụ. Qua đó nâng cao trình độ của công nhân và các nhà quản lý các cấp trong doanh nghiệp. Mặt khác, việc nâng cao năng lực cạnh tranh giúp sàng lọc khách quan đội ngũ những người không có khả năng thích nghi với sự thay đổi của thị trường.
Thứ hai, đối với người tiêu dùng, việc nâng cao năng lực cạnh tranh tạo ra một áp lực liên tục đối với giá cả, buộc các công ty phải hạ giá cước dịch vụ để nhanh chóng bán được dịch vụ, qua đó người tiêu dùng được hưởng các lợi ích từ việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty trong cung ứng dịch vụ. Mặt khác, việc nâng cao năng lực cạnh tranh buộc các công ty phải mở rộng sản xuất, đa dạng hóa về loại hình dịch vụ, vì thế người tiêu dùng có thể tự do lựa chọn theo nhu cầu và thị hiếu của mình.
Thứ ba, đối với nền kinh tế, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty cung ứng dịch vụ thông tin di động làm sống động nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và tạo ra áp lực buộc các công ty cùng ngành phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, qua đó góp phần tiết kiệm các nguồn lực chung của nền kinh tế. Mặt khác, việc này cũng tạo ra áp lực buộc các công ty phải đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn, sử dụng lao động có hiệu quả, tăng năng suất lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế quốc dân.
Thứ tư, đối với quan hệ đối ngoại, nâng cao năng lực cạnh tranh thúc đẩy các công ty thông tin di động mở rộng thị trường ra khu vực và thế giới, tìm kiếm thị trường mới, liên doanh liên kết với các công ty viễn thông nước ngoài, qua đó tham gia sâu vào phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế, tăng cường giao lưu vốn, lao động, khoa học công nghệ với các nước trên thế giới.
2.3. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ thông tin di động của các công ty viễn thông
Nhiều nhà kinh tế học đưa ra tiêu chí khác nhau đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty. Có thể đưa ra đây ba nhóm tác giả tiêu biểu sau:
- Theo Gold Smith và Clutter Buck, có 3 tiêu chí đo lường năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ của công ty là: tăng trưởng tài sản vốn, doanh số và lợi nhuận
trong 10 năm liên tục; sự nổi tiếng trong ngành như là một công ty dẫn đầu; sản phẩm/dịch vụ được người tiêu dùng ưa chuộng [57].
- Theo Baker và Hart, có 4 tiêu chí để đo lường năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ của công ty là tỷ suất lợi nhuận; thị phần; tăng trưởng xuất khẩu; quy mô [46].
- Theo Peters và Waterman, có 7 tiêu chí để đo lường năng lực cạnh tranh của công ty bao gồm: 3 tiêu chí đo lường mức độ tăng trưởng và tài sản dài hạn được tạo ra trong vòng 20 năm là: doanh thu, lợi nhuận và tổng tài sản; 3 tiêu chí khách đo lường khả năng hoàn vốn và tiêu thụ sản phẩm là: thời gian hoàn vốn, thị phần và tỷ trọng xuất khẩu; tiêu chí cuối cùng là đánh giá lịch sử quá trình đổi mới của công ty [55].
Tựu trung lại, các cách đánh giá khác nhau cũng đều xoay quanh các tiêu chí: thị phần, doanh thu, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận, tài sản hữu hình và tài sản vô hình, phương pháp quản lý, uy tín của công ty, tỷ lệ đội ngũ quản lý có trình độ cao và lực lượng công nhân lành nghề, chất lượng, giá cả, sự đa dạng hóa sản phẩm/dịch vụ, hệ thống kênh phân phối… Những yếu tố đó tạo cho công ty khả năng khai thác mọi hoạt động, tiềm năng với hiệu suất cao hơn đối thủ.
Như vậy, ta có thể đưa ra nhóm chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ thông tin di động của các công ty viễn thông như sau:
2.3.1. Chất lượng của dịch vụ
Chất lượng sản phẩm, dịch vụ có vai trò quan trọng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ của công ty. Do vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ của công ty trong môi trường cạnh tranh, các công ty cần phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và chú ý đến công tác phục vụ khách hàng để thu hút và tạo sự trung thành của khách hàng đối với sản phẩm/dịch vụ của công ty mình.
Chất lượng dịch vụ là một yếu tố không thể thiếu khi đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty vì chất lượng dịch vụ ảnh hưởng trực tiếp tới cảm nhận và đánh giá của người tiêu dùng đối với sản phẩm, dịch vụ của công ty. Chất lượng dịch vụ thông tin di động thể hiện trên các mặt chủ yếu sau: vùng phủ sóng rộng, tốc độ truyền đưa tin tức cao, độ an toàn của tin tức...
Người tiêu dùng khi sử dụng dịch vụ thông tin di động luôn mong muốn có thể gọi, nhận cuộc gọi, sử dụng các dịch vụ giá trị gia tăng... ở tất cả mọi nơi, thời gian chờ thực hiện yêu cầu ngắn, tin tức được đảm bảo an toàn, chính xác,... Nếu công ty cung cấp dịch vụ không thực sự quan tâm tới các yêu cầu trên khiến khách hàng không hài lòng về dịch vụ thì việc khách hàng rời bỏ công ty là điều tất yếu.
Do đó, công ty tham gia cung cấp dịch vụ thông tin di động cần quan tâm tới việc ứng dụng công nghệ đảm bảo chất lượng dịch vụ của mình. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với các khách hàng lớn, các công ty - những đối tượng có yêu cầu cao về dịch vụ. Với một dịch vụ giá không cao, việc tăng chất lượng sẽ thu hút được một lượng khách hàng lớn đem lại lợi nhuận cao cho công ty. Nhà cung cấp nào lợi dụng được ưu thế về quy mô, công nghệ để tăng chất lượng của mình sẽ tạo nên một lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Có thể phân tích chất lượng sản phẩm, dịch vụ thành hai phần :
– Chất lượng về kỹ thuật, chức năng
– Chất lượng phục vụ
Chất lượng sản phẩm, dịch vụ trên phương diện kỹ thuật, chức năng: bao gồm các yếu tố có thể định lượng được của dịch vụ. Đó là khả năng thoả mãn nhu cầu của người sử dụng khi sử dụng sản phẩm/dịch vụ. Đối với các dịch vụ viễn thông đó là sự truyền đưa tin tức từ người gửi đến người nhận một cách nhanh chóng, chính xác, an toàn, tin cậy.
Chất lượng phục vụ khách hàng: là mức độ hài lòng của người tiêu dùng trước khi sử dụng, trong khi sử dụng và sau khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ. Thể hiện của chất lượng phục vụ là thái độ của nhân viên chu đáo, ân cần, lịch sự. Công tác cung cấp thông tin, giải đáp thắc mắc, bảo hành, bảo trì sau bán hàng…để thu hút khách hàng, dành thị phần, tạo ra các khách hàng trung thành cho công ty.
Theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng dịch vụ điện thoại trên mạng viễn thông di động mặt đất, chất lượng cung ứng dịch vụ thông tin di động được đánh giá theo các tiêu chí: Chỉ tiêu chất lượng kỹ thuật (Tỷ lệ cuộc gọi được thiết lập thành công, tỷ lệ cuộc gọi bị rơi, chất lượng thoại, độ chính xác ghi cước, tỷ lệ cuộc gọi bị tính cước, lập hoá đơn sai); chỉ tiêu chất lượng phục vụ (độ khả dụng của dịch vụ, khiếu nại của khách hàng về chất lượng dịch vụ, hồi âm khiếu nại của khách hàng, dịch vụ hỗ trợ khách hàng) [7].
2.3.2. Giá cước dịch vụ
Giá cước là một yếu tố nhạy cảm trong hầu hết các lĩnh vực kinh doanh, đặc biệt là trong kinh doanh dịch vụ. Các dịch vụ viễn thông nói chung và dịch vụ thông tin di động nói riêng là các dịch vụ có lợi thế theo quy mô. Đồng thời, cùng với sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của công nghệ, chi phí sản xuất ngày càng giảm. Điều này đã tạo cho các công ty cung cấp dịch vụ thông tin di động lợi thế cạnh tranh rất lớn.
Giá cước là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ thông tin di động của các công ty viễn thông. Dựa vào giá
cước dịch vụ người ta có thể đánh giá được đối tượng khách hàng mà công ty hướng đến là đối tượng nào, khả năng tiêu thụ dịch vụ của họ ra sao?
2.3.3. Hệ thống kênh phân phối dịch vụ
Cùng một giá cước và chất lượng, nếu dịch vụ thông tin di động của một công ty được giới thiệu và bán tới người tiêu dùng trước với hệ thống kênh phân phối tốt, thì phần thắng thuộc về công ty này. Lợi thế này đòi hỏi các công ty cung ứng dịch vụ thông tin di động phải có được đội ngũ nghiên cứu dịch vụ mới có trình độ cao, thiết kế dịch vụ mới hấp dẫn trong thời gian ngắn. Bên cạnh đó, cũng yêu cầu các công ty này phải có được một hệ thống phân phối hiệu quả, nhanh chóng đưa được dịch vụ tới mọi khách hàng. Bởi khi một dịch vụ thông tin di động đã tràn ngập thị trường mà đối thủ mới triển khai đưa dịch vụ tương tự của họ ra bán bằng giá thì chắc chắn doanh số và lợi nhuận thu được từ dịch vụ đó sẽ rất thấp, thậm chí công ty đó còn có thể bị phá sản. Tuy nhiên, lợi thế này đòi hỏi các nguồn thông tin của các công ty cung ứng dịch vụ thông tin di động thu thập được về đối thủ cạnh tranh hiện tại hay đối thủ tiềm tàng phải nhanh và chính xác.
2.3.4. Sự khác biệt hóa dịch vụ
Mọi dịch vụ thông tin di động khi xuất hiện trên thương trường đều mang một chu kỳ sống nhất định, đặc biệt “vòng đời” của nó sẽ rút ngắn khi xuất hiện sự cạnh tranh. Để kéo dài chu kỳ sống của dịch vụ thông tin di động, các công ty viễn thông dùng nhiều biện pháp trong đó có biện pháp thường xuyên cải tiến mọi mặt dịch vụ, tạo ra nét độc đáo riêng, liên tiếp tung ra thị trường những dịch vụ mới thay thế dịch vụ cũ. Công dụng và giá cước của dịch vụ mới cơ bản giống với dịch vụ cùng loại nhưng chỉ thêm một chút về tính độc đáo trong cách thiết kế hay bố trí sắp xếp lại trật tự, được khách hàng chấp nhận thì chất lượng của dịch vụ đã được người tiêu dùng bình chọn là hơn và vượt trội so với dịch vụ của đối thủ.
Để có được các lợi thế cạnh tranh trên, các công ty cung cấp dịch vụ thông tin di động cần phải tạo ra cho mình được các tiềm năng để tạo ra lợi thế đó. Đó là:
Thứ nhất, áp dụng khoa học - kỹ thuật và quản lý hiện đại. Sức cạnh tranh dịch vụ của công ty viễn thông sẽ tăng lên khi giá cước dịch vụ thông tin di động cá biệt của họ thấp hơn giá cả trung bình trên thị trường. Để có được lợi nhuận, đòi hỏi các công ty phải tập trung các nguồn lực để tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm làm cho giá trị dịch vụ cá biệt của mình thấp hơn giá trị xã hội. Muốn vậy, các công ty phải thường xuyên cải tiến công cụ lao động, hợp lý hóa sản xuất, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật và quản lý hiện đại vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, phương thức phục vụ và thanh toán. Tiềm năng này đáp ứng mặt thứ hai
của chất lượng dịch vụ thông tin di động mà công ty cung ứng. Chất lượng của dịch vụ thông tin di động được người tiêu dùng đánh giá là chất lượng thực sự của dịch vụ (công dụng, độ bền, hình thức,…) và chất lượng trong phong cách phục vụ. Bởi tiềm năng là tạo ra sự tiện lợi cho khách hàng. Phương thức phục vụ và thanh toán trước hết được thể hiện ở ba giai đoạn của quá trình bán hàng: trước khi bán hàng, trong khi bán hàng và sau khi bán hàng.
Thứ ba, đặt chữ tín lên hàng đầu. Trong quá trình cung ứng dịch vụ, các công ty viễn thông sử dụng nhiều biện pháp lôi kéo khách hàng về phía mình, đặc biệt thực hiện linh hoạt trong khâu hợp đồng, thanh toán như: giá cước, số lượng, kích cỡ bằng văn bản, bán chịu, bán gối đầu,…Những hành vi này sẽ thực hiện được tốt hơn khi giữa các công ty và khách hàng có lòng tin với nhau. Do vậy, chữ tín trở thành công cụ sắc bén trong cạnh tranh, giúp cho quá trình buôn bán diễn ra nhanh chóng, tiện lợi.
Thứ tư, các yếu tố mới sáng tạo và sự mạo hiểm, rủi ro. Trong kinh doanh, lợi nhuận của công ty viễn thông thường tỷ lệ thuận với sự mạo hiểm, rủi ro. Các chủ thể kinh doanh có khuynh hướng đầu tư kinh doanh vào những dịch vụ thông tin di động mới, những lĩnh vực mà mà rủi ro ở đó thường cao. Đây cũng là khuynh hướng khách quan, vì nó hy vọng thu được lợi nhuận cao trong tương lai. Mặt khác, nó giảm được áp lực từ phía đối thủ cạnh tranh hiện tại. Sự mạo hiểm chấp nhận rủi ro nhằm thu được lợi nhuận lớn bằng cách đi đầu trong kinh doanh là công cụ cạnh tranh cực kỳ hiệu quả, nhưng cũng cực kỳ nguy hiểm trong quá trình cạnh tranh.
Như vậy, bằng việc biến các tiềm năng thành lợi thế cạnh tranh mà các công ty viễn thông hiện nay sử dụng có thể khái quát lại như sau: lấy chất lượng; giá cước hợp lý; nhanh; mới; nhiều; linh hoạt; lòng tin; nổi tiếng; thúc đẩy (khoa học kỹ thuật và phương pháp quản lý hiện đại); liên doanh; độc đáo; mạo hiểm và tín dụng thương mại để thắng trong cạnh tranh.
2.3.5. Thông tin và xúc tiến thương mại
Thông tin là một công cụ cạnh tranh lợi hại của các công ty viễn thông. Thông tin về thị trường mua bán, thông tin về tâm lý thị hiếu khách hàng, về giá cước, đối thủ cạnh tranh... có ý nghĩa quyết định trong cung ứng dịch vụ thông tin di động của các công ty. Đủ thông tin và sử dụng thông tin, một mặt, giúp các công ty hạn chế rủi ro trong kinh doanh; mặt khác, qua thông tin có thể tìm ra và tạo ra “lợi thế so sánh” của công ty trên thương trường, chuẩn bị và đưa ra đúng thời điểm những dịch vụ thông tin di động mới thay thế để tăng cường sức cạnh tranh của dịch vụ. Thông tin đủ, đúng lúc hoặc bưng bít thông tin có thể thúc đẩy thị trường một cách tích cực hoặc tạo ra những nhu cầu giả tạo, hành vi cạnh tranh sai trái làm biến dạng thị trường. Vì thế, không ngạc nhiên khi tình trạng quảng cáo dịch vụ thông tin di động hiện nay của các công ty viễn thông xuất hiện ngày càng nhiều trên phương tiện thông tin đại chúng, chi phí cho